Phanxicô Tế
(Francois Gil de Federich), Sinh 1702 tại Tortosa, Catalunha, Tây Ban Nha, Linh
mục thừa sai dòng Ða Minh, thuộc địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày
22/01/1745 tại Thăng Long dưới đời chúa Trịnh Doanh, được phong Chân Phước ngày
15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 22/01.
Các lệnh cấm đạo năm 1750, 1754, và 1765
Cuối năm 1748, Trịnh
Doanh đi thăm các trại lính thấy khẩu đại bác có chữ Âu Châu muốn biết xem là
chữ gì liền ra lệnh tìm người Âu Châu. Cha Paleceuk Dòng Tên được đưa đến để giải
thích các chữ viết, đồng thời khuyến khích chúa Trịnh tin dùng người Âu Châu
làm cố vấn. Ngay lúc đó Trịnh Doanh ra lệnh phóng thích 7 người Công Giáo đang
bị giam giữ ở Kinh Ðô và xin Cha Paleceuk tìm các chuyên viên toán học và thiên
văn. Bề trên Dòng Tên ở Macao sai Cha Simonelli và 6 vị thừa sai với đầy đử dụng
cụ thiên văn và toán học đến. Trong thời gian này giáo dân bắt đầu tổ chức lễ lạy
công khai, nhiều quan trở lại đạo và lương dân thân thiện với Công Giáo như trước.
Nhưng không biết vì
lẽ gì Trịnh Doanh lại đổi ý, ngày 3-7-1750 lập lại các lệnh cấm đạo cũ. Năm
1751 khi đòan thừa sai từ Macao đến để làm việc theo lời yêu cầu đã bị từ chối
không cho phép xuống đất. Sau cha Dòng Tên đã lẻn xuống được, còn cha trưởng
đoàn phải trở về Macao.
Ngày 26-10-1754, Trịnh
Doanh công bố một lệnh cấm đạo mới. Nội dung như sau: "Hội đồng các quan
truyền lệnh cho các huyện như sau: Ðạo 'Hoa Lang' lầm lạc nghịch lại lý trí, mê
hoặc lòng dân và còn truyền bá lan rộng đạo lý sai lầm. Các năm trước hội đồng
đã gửi các sắc lệnh ngăn cấm để chặn sự xâm nhập của đạo này, nhưng vẫn còn có
người tiếp tục làm hư hại người khác. Vì vậy quan trấn các phủ huyện phải bí mật
điều tra. Nếu bắt được đạo trưởng thì phải giải họ về kinh, các tín hữu thì phải
trừng phạt, hoặc lưu đầy, hoặc tạp dịch trong các chuồng thú vật, hoặc đánh
đòn. Nếu các quan chểnh mảng nhiệm vụ này sẽ bị trừng phát, ai nhiệt thành sẽ
được trọng thưởng".
Lệnh trên được bí mật
gửi cho các quan, nhưng khi các vị thừa sai biết được đã ra lệnh ngưng các buổi
hội họp, sửa đổi nhà thờ thành nhà ở, treo cờ, dựng cây nêu... Còn các vị thừa
sai thì tạm thời trốn tránh. Kết quả Cha Ðóa bị bắt với 4 người nhà. Cha Cai và
4 người nhà khác cũng bị bắt tại Bố Chính, các chủng sinh tại Thanh Hóa một số
bị bắt. Ðịa phận Ðông Ký có một thầy giảng bị bắt tại Xứ Bắc và Cha Alonso dòng
Ða Minh cũng bị bắt.
Ngày 15-9-1765, Trịnh
Doanh kết án một nhà sư và ra lệnh giải tán một số chùa chiền, nhưng vì sợ dân
chúng phản loạn cho là bắt đạo Phật nên Trịnh Doanh ra lệnh cấm luôn cả đạo
Công Giáo. Các vị thừa sai chỉ nhắc đến những vụ bắt bớ do quan lại muốn làm tiền,
không có ghi lại sắc lệnh. Kết quả là Cha Orta người Ý thuộc Dòng Tên và Cha
Ðóa Dòng Ða Minh bị bắt tại Thanh Hóa. Ngoài ra Cha Gioan Hiên và nhiều cha
khác đi làm lễ Phục Sinh cũng bị bắt. Khi Trịnh Doanh chết cuộc bắt bớ mới tạm
yên.
Linh Mục Francis Gil de Federich Tế
Ðứng đầu sổ 117
Thánh Tử Vì Ðạo Việt Nam là Cha Tế và Cha Ðậu, hai linh mục thừa sai người Tây
Ban Nha thuộc Dòng Ða Minh. Cha Tế có tên Tây Ban Nha là Gil De Federich, sinh
năm 1702 tại Tortosa trong một gia đình đạo đức. Khi được rửa tội, cha mẹ đặt
cho nhiều tên thánh khác nhau, tên trong sổ bộ là Francis. Năm 15 tuổi, cậu Gil
gia nhập tu viện Ða-Minh tại Tortosa và năm sau, 1718, được tuyên khấn. Thầy
Gil tiếp tục học thần học và thụ phong linh mục năm 1727, lúc 25 tuổi.
Hai năm trước khi
làm linh mục, Cha Gil đã ghi tên xin đi sang tu viện của dòng ở Phi Luật Tân
nhưng bề trên không chấp nhận. Qua năm 1729, Cha Gil lại xin một lần nữa, đơn của
ngài được chuyển về Rôma để cứu xét. Ý nguyện của cha được bề trên chấp thuận.
Cha cùng với 24 người khác tới Manilla tháng 11-1730. Mặc dù đang cơn bắt đạo,
Cha Gil vẫn mong muốn được truyền giáo tại Trung Hoa hay Việt Nam. Cha được bề
trên gửi đi Bắc Kỳ và tới nơi ngày 28-8-1735.
Sau 4 tháng học tiếng
Việt tại Lục Thủy, Cha Gil được đặt cho một tên Việt Nam là Tế, với nhiệm vụ
coi sóc 40 họ đạo trong ba huyện Giao Thủy, Chân Ðinh và Vụ Tiên thuộc trấn Xứ
Nam. Tên mà bề trên đặt cho ngài đã trở thành điềm báo cuộc tử đạo, tế hiến
chính mạng sống mình cho Thiên Chúa. Trong thời gian làm việc truyền giáo Cha Tế
tỏ ra rất nhiệt thành, đặc biệt về lòng bác ái. Mỗi khi có người mời đi kẻ liệt,
dù ốm đau hay nguy hiểm, ngài cũng đi ngay.
Ngày 3-8-1737, Cha
Tế làm lễ kính thánh Ða Minh tại Lục Thủy Hạ, đang khi còn cám ơn thì có một
toán người ập đến lục soát. Giáo dân không kịp giúp cha chạy trốn. Cha bảo họ
trốn đi, còn ngài thì ra nộp mình với lòng tin tưởng là Thánh Giuse sẽ giúp.
Ngài nói với bọn người đến bắt: - "Các ông tìm ai? Chính tôi đây là người
các ông muốn."
Sư Tình ra lệnh
trói cha lại đem xuống thuyền. Tại bờ sông họ còn thấy mấy giáo hữu liền bắt
đem theo. Cha Tế nói với sư Tình: "Các ông đã bắt tôi rồi, tại sao còn bắt
giữ những người này? Xin hãy thả họ ra".
Như một mệnh lệnh,
bọn sư Tình liền cởi trói và trả tự do cho mấy người giáo dân. Sư Tình đem Cha
Tế về giam tại nhà mình ở Thủy Nhai Thượng, chờ giáo dân mang món tiền kếch sù
đến chuộc. Sư Tình hỏi Cha Tế: "Ngươi có sợ không?"
Ngài bình thản trả
lời: "Tôi không sợ mà chỉ lo cho giáo dân".
Ðể có thể bóc lột số
tiền của giáo dân, sư Tình làm cho họ hoảng sợ bằng cách sai hai tên lính cầm
giáo đi hai bên đến nhà giam trói ngài vào cột và đặt bản án ngay bên cạnh như
là tội nhân bị hành quyết. Một lần khác ông cho điệu Cha Tế đi đến nhà hội của
làng, cho nhiều người giả làm triều đình xét xử. Cha Tế không chút sợ hãi, bình
thản lợi dụng cơ hội để giảng đạo cho lương dân. Con trai của sư Tình là Tri Bá
đến nhạo cười: "Tôi là một người Công Giáo xấu, tên là Dominic, vụ của cha
sẽ ổn thỏa với giá 500 lượng bạc".
Giáo dân thấy vậy
thì quyết định đi thẳng với quan trên bằng món tiền lớn hơn. Quan tỉnh là người
quỉ quyệt, muốn làm tiền cả đôi bên. Ông nhận tiền của giáo dân, hứa sẽ thả Cha
Tế trên đường đưa về phủ. Chính quan đến nhà sư Tình để dẫn giải cha, đồng thời
bắt cả cha con đầy tớ sư Tình vì tội chứa chấp đạo trưởng. Quan phủ đã giải các
tù nhân về kinh đô để lấy công trạng.
Những ngày bị giam
giữ khổ sở và cuộc hành trình đã làm Cha Tế ốm nặng, quan phải kiếm thuốc và
cho phép người nhà của cha săn sóc. Ngày 23-8 họ tới kinh đô Hà Nội. Sau đây là
cuộc thẩm vấn của các quan: "Ông có biết đạo Kitô bị cấm trong nước không?
Sao còn đến đây?"
- "Tôi đến để giải thoát các linh hồn khỏi hư mất".
- "Nếu vua ra lệnh chém đầu thì ông còn làm gì
được?"
- "Tôi sẵn sàng chịu sự khổ đó".
Sau đó cha bị giao
cho lính canh, họ để cha nằm dưới đất cả lúc trời mưa. Một người y tá Công Giáo
từ Lục Thủy đến thăm cha, thấy vậy đi mua cho cha một trái dưa để uống lấy sức.
Các gia nhân tại phủ tỏ ra tử tế và săn sóc cha. Ðể trả công, cha giảng đạo cho
họ.
Tại đây cha viết vội
mấy lời gửi bề trên: "Con tin rằng Chúa đã để con bị sốt nặng để chia sẻ với
cuộc thương khó của Chúa. Những khốn khổ của nhà tù con coi là nhỏ mọn. Thay vì
buồn, con cảm thấy vui và sẵn sàng đón nhận những cực khổ như là hồng ơn Chúa gửi
đến cho riêng con".
Ngày 30-8, cha được
chuyển sang ngục Ðông. Trên đường sang ngục Ðông, trẻ con lấy cành tre làm thánh
giá, ném dưới chân ngài để chế diễu. Cha Tế chỉ sốt sắng lượm lên hôn kính. Tại
ngục Ðông cha cũng chịu nhiều khốn khó. Các tù nhân cũng tàn bạo với ngài. Tưởng
chừng ngài sắp chết, bà Kinh, một người Công Giáo thường săn sóc cha, liền đi mời
Cha Ngai, giả làm thầy thuốc và đút tiền để được vào thăm cha. Mấy tên lính
canh tù muốn làm tiền giáo hữu nên đeo thêm gông và xích cho cha rồi bảo họ nếu
muốn cha được miễn trừ thì phải cho tiền. Khi cha khỏe lại đã cấm các giáo dân
đừng làm thế nữa.
Lính coi ngục làm
khó dễ, các giáo dân phải cậy nhờ một bà người lương tên là Gạo, nhà ở gần đó,
săn sóc cha. Sau này bà được ơn trở lại và rửa tội, lấy tên thánh là Rosa.
Trong lời khai trước ủy ban điều tra phong chân phúc, bà đã nói: "Chị của
tôi đã phải tha nợ cho mấy tên lính để họ tử tế với cha và cho phép cha ra nhà.
Lần khác khi mang thức ăn cho cha họ đã không chịu cho tới khi tôi đưa cho họ
món tiền".
Việc to tát bà Gạo
có thể giúp cha là cung cấp giấy tờ viết thư và chuyển thư của cha cho bề trên.
Sau hai tháng bị giam cha được phép ra nhà bà Gạo để dùng cơm, và tiếp xúc với
giáo dân tại kinh đô. Suốt trong 7 năm bị giam cầm, Cha Tế vẫn tiếp tục giúp
các giáo dân.
Cuối tháng 10-1737,
tòa án bắt đầu xét xử cha công khai. Cha bị dẫn đi, tay mang xích, cổ đeo gông.
Trên đường đi, trẻ con lại vất những thánh giá bằng lá tre vào ngài và cười chế
nhạo. Một đứa lớn hô to: "Xem kìa, ông cha sẽ chối đạo để giữ cái đầu khỏi
bị chém".
Cha Tế liền quay mặt
lại nhìn nó và nói: "Không đâu con, cha đã không và sẽ không bao giờ chối
bỏ đức tin đâu. Chỉ có chúng con mới làm những điều trái nghịch là đi hành hạ
người tù nhân ốm yếu không bao giờ làm hại ai. Hơn nữa chúng con còn chế diễu
thánh giá là dấu chỉ ơn cứu rỗi cho mọi người".
Cha Tế và ba người
giáo dân cùng với sư Tình bị điệu ra trước tòa án. Quan án bắt đầu thẩm vấn Cha
Tế: "Ông bị bắt tại nhà của ai trong 4 người này?"
- "Tại nhà sư Tình. Tôi không hề vào nhà ba người
kia".
- "Ông từ đâu đến?"
- "Từ Tây Ban Nha".
- "Ðã bao lâu ông ở tại Bắc Kỳ?"
- "Khoảng chừng hai năm".
- "Ai đã mang ông vào?"
- "Tôi không còn nhớ tên".
- "Vậy ông đã ở những đâu trong hai năm
qua?"
- "Tôi không có nơi ở nhất định. Tôi thường đi từ
nơi này sang nơi khác".
- "Ai đã nộp ông cho tòa án này?"
- "Ông quan".
- "Ông quan đã bắt ông tại nhà ai?"
- "Tại nhà sư Tình".
- "Ông đã ở nhà ấy bao nhiêu ngày?"
- "Mười hay mười một ngày gì đó".
- "Ông có dậy đạo cho người ấy không?"
- "Không".
- "Vậy ông đã làm những gì?"
- "Tôi làm những việc không liên quan gì tới
quan tòa cả".
Viên ký lục đã làm
sai lạc lời khai của ngài mà nói là cha đã ở nhà sư Tình hai năm. Sau đó cha được
dẫn về nhà tù và hôm sau lại bị dẫn đến nhưng quan án lại cho ngài về tù vì là
ngày lễ nghỉ. Trên đường về, họ dẫn cha qua đền thờ tổ tiên của quan và bắt cha
lạy. Cha từ chối nên bị họ đánh đập bất tỉnh. Cha lên cơn sốt 15 ngày vì những
vết thương hành hạ. Sau đó giáo dân cho lính canh nhiều tiền để cha được ở cả
ngày đêm tại nhà bà Gạo. Khi khỏe lại, cha liền bị dẫn đến tòa án.
Vào cuối năm theo
niên lịch Bắc Việt, các quan có thói quen giải quyết hết các vụ kiện, nhưng năm
đó vì có sứ Trung Hoa sang nên họ không xét vụ của cha. Ðến tháng 10, một cha
Việt Nam đến nhà bà Gạo dâng lễ. Sau đó chính ngài xin bề trên gửi các đồ lễ đến
để dâng lễ. Năm ấy các quan viết án cho ngài như sau: Cha Tế bị bắt tại Xứ Ðông
và bị lên án chém đầu. Còn sư Tình và con trai bị án phát lưu chăn voi cho chúa
Trịnh 6 năm. Án được viết ngày 10-7-1738, vua châu phê ngày 12 và ấn định ngày
thi hành án lệnh là ngày 22-7. Sư Tình bỏ tiền mua chuộc các quan để xét xử lại.
Nhưng án không thay đổi. Sư Tình tiếp tục kháng cáo và tìm ra được lẽ để thanh
minh.
Ngày 20-7-1739, cha
lại bị đem ra tòa lần nữa: "Dựa vào quyền gì mà ông đến nhà sư Tình? Trước
đó ông ở đâu?"
- "Tôi đến nước này đã 4 năm, hai năm bị giam tù,
hai năm khác thì đi nơi này nơi nọ để rao giảng đạo Kitô. Còn nói đã đi những
đâu thì tôi không muốn nói".
- "Vậy những lời khai năm trước là đúng?"
- "Những gì tôi đã nói là đúng như vậy. Bây giờ
tôi không nói gì thêm".
- "Ông là một người phản bội, nói láo, bây giờ
không muốn nói lại?"
- "Không đúng như vậy, nhưng tôi không buộc phải
khai lại".
Ngay lúc ấy, sư
Tình chụp cơ hội xin nói. Ông đã tóm lược lại các việc xẩy ra nhưng bỏ hẳn phần
cha Tế bị giam giữ tại nhà ông.
Ðể tránh rắc rối
cho những người ở Lục Thủy Hạ, Cha Tế nói: "Những gì tôi khai năm ngoái là
thực và tôi không buộc phải khai là sư Tình đã bắt tôi tại Lục Thủy Hạ. Bởi vì
các ông chỉ muốn trừng phạt những người đã tiếp tôi và thưởng công cho kẻ bắt
tôi. Ðiều ấy bất công và vô lý".
- "Như vậy chém đầu ông cũng là nghịch công
lý?"
- "Hiển nhiên là như vậy. Nhưng nếu quí quan ra
lệnh chém đầu tôi vì đức tin thì tôi rất hài lòng".
Quan án ra lệnh nếu
Cha Tế không khai thêm sẽ cho đánh 30 đòn. Cha Tế muốn chịu đòn hơn là nói gì
thêm. Quan cho đặt thánh giá dưới đất rồi ra lệnh cho mọi người đạp lên. Dù phản
đối, họ cũng khiêng ngài qua. Nhưng cha đã nhấc thánh giá lên và hôn kính. Sư
Tình thì lợi dụng cơ hội này để nhục mạ ảnh đạo, nhảy nhót trên tượng và đồng
thời tố cáo ngài còn giữ nhiều đồ đạo tại nhà tù. Trong phiên xử hai hôm sau,
ngày 22-7, quan ép buộc cha Tế cung khai mấy người giáo dân, nhưng cha nhất định
không chịu. Sau đó quan liền hỏi về các ảnh đạo.
Quan cầm tượng
thánh giá lên hỏi: "Người trên thánh giá này là ai?"
- "Ðó là hình ảnh của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa,
đã làm người và chịu chết trên thánh giá để chuộc tội nhân loại".
- "Còn hình kia là gì?"
- "Ðó là ảnh Mẹ Thiên Chúa, đã cưu mang đấng chịu
đóng đinh".
- "Người ta đi đâu sau khi chết?"
- "Khi chết rồi, xác ở dưới phần mộ, còn hồn thì
hoặc lên trời hoặc phải xuống địa ngục tùy theo công trạng trong đời sống".
- "Ðiều ông nói về linh hồn chỉ là tưởng tượng.
Ai nói rằng sự vật qua đi như thế?"
- "Thiên Chúa đã nói vậy".
- "Thật vậy ư? Ông đã nghe thấy tiếng Chúa
chưa?"
- "Mặc dù không nghe chính Thiên Chúa nói, nhưng
chắc chắn là ngài đã dậy như vậy".
Một tên lính hầu
mang tới một cái gậy, đặt ngay trước mặt cha Tế, cha lại tưởng họ đánh mình nên
đưa đầu gối ra, nhưng quan lại nói: "Gậy không phải để tra tấn. Ta ra lệnh
cho ông cầm lấy và đánh vào những tượng ảnh này".
Cha Tế rùng mình vội
cầm gậy vất đi thật xa. Tên hầu lại lấy về và đặt trước mặt sư Tình. Ông liền cầm
ngay lấy và giơ gậy đánh vào bức ảnh Ðức Mẹ bằng ngà voi. Cha Tế chạy vội lại,
dùng thân mình làm thuẫn cản lại, lấy tay che lên đầu Chúa Giêsu và Mẹ Maria
trong ảnh rồi nói: "Sư Tình, hãy đánh lên tay tôi".
Quan thấy vậy thì
cười và nói: "Các người Kitô bị lừa dối bởi những tượng ảnh này".
Thế là có cuộc giằng
co giữa Cha Tế và sư Tình. Quan cho lệnh ngừng cuộc giằng co lại và nói:
"Thế thì tượng phải đau vì những cái đánh này lắm nhỉ?"
- "Ðức Bà
Maria và Con của Ngài ở một nơi không còn đau đớn nữa. Nếu chúng tôi tôn kính ảnh
tượng này cũng chỉ vì đó là hình ảnh nhắc nhở chúng tôi đến các Ngài".
Phiên tòa chấm dứt.
Tên lính canh ngục đòi tiền ngài để đưa cho tóan lính áp giải. Một người giáo
dân nói ngài chỉ nên đưa một phần ba. Vì thế tên lính canh nghiệt ngã cấm mọi
người đến thăm ngài trong ba ngày. May nhờ có người lương mang gạo đến. Thấy sức
khỏe ngài yếu liệt, bề trên sai Cha Minh đến ban các bí tích cuối cho ngài. Tuy
nhiên Cha Tế lại khỏe lại.
Các quan thấy khó
giải quyết, không biết phải xử thế nào đối với ba người giáo dân ở Lục Thủy Hạ.
Vua cho một quan khác đến xử vụ kiện dai dẳng này. Ngày 20-9, cha lại bị đưa ra
trước tòa để tra hỏi: "Ông ở nước này bao nhiêu năm rồi? Có phải ông bị bắt
khi mới tới không? Ông có rao giảng đạo Kitô không?"
- "Tôi đã ở đây bốn năm và giảng đạo hai
năm".
- "Có thật ông đã ở trong nhà sư Tình 10
ngày?"
- "Tôi đi đây đó để giảng đạo, nơi thì 10 ngày,
nơi khác 15 ngày. Tôi chỉ ở nhà sư Tình có 10 ngày".
- "Ðạo đã bị cấm, tại sao ông còn đến đây?"
- "Vua chúa không có quyền cấm như thế, vì vua
chúa không có quyền tuyệt đối ra lệnh như ý thích".
- "Ông có học biết thiên văn không?"
- "Không".
Ngài bị đem ra đem
vào nhiều lần và hỏi đi hỏi lại để có bằng chứng là cha bị bắt tại nhà mấy giáo
dân, và như thế có lý do để tha sư Tình. Cha Tế từ chối không nói gì thêm mà chỉ
xin trả tự do cho các giáo dân. Họ yêu cầu cha ký vào biên bản. Ðọc trong bản
án thấy viết là bị tố cáo vì rao giảng tà đạo, cha không chịu ký. Họ cho sửa lại
là đạo 'Hoa Lang' nghịch với luật, cha mới ký vào.
Thế rồi nội chiến xẩy
ra và người ta quên bẵng vụ án của ngài. Lúc đó Cha Tế là người duy nhất có mặt
ở Hà Nội để giúp giáo dân. Trong thời gian bị giam tù, Cha Tế đã rửa tội được
122 người. Nội chiến kéo dài ba năm. Một hôm chúa Trịnh chợt có ý muốn hỏi Cha
Tế có cách nào chấm dứt được loạn lạc, với ẩn ý muốn cha nói với người tây
phương giúp. Cuối tháng 9, cậu của vua cho lệnh đưa Cha Tế đến và hỏi:
"Tôi thấy đạo của cha hợp lý, những điều tôi nghe rất phù hợp với sách tôi
đã đọc. Chỉ có điều là đạo không chấp nhận những tôn giáo khác. Ngày mai cha
mang đến cho tôi xem cuốn sách về đức tin Kitô để tôi thấu đáo và có thể nói với
chúa Trịnh cho cha. Cha cũng mang đến một học giả người Việt để có thể giải
nghĩa được các chữ Việt".
Trở lại nhà giam,
cha được giáo dân cho biết là quan chỉ muốn xem đạo có cách nào diệt được giặc
không thôi. Ngày hôm sau, cha viết thư cho ông hoàng: "Theo đức tin của
chúng tôi, chỉ có một phương thế duy nhất chữa trị các cái xấu đó là cầu xin
Thiên Chúa cho hòa bình và hứa rằng chính quyền sẽ không bao giờ bắt bớ đạo thật
nữa. Nếu vua muốn chấm dứt chiến tranh thì hãy thôi bắt bớ giáo dân và đạo thật,
vì đấy chính là nguồn gốc của mọi sự dữ trong nước". Ông hoàng có nói lại
với ba quan và họ hứa sẽ nói với chúa Trịnh để cho phép tự do hành đạo. Ngay
lúc đó có tin đồn là giáo dân tỉnh Nam đi theo giặc, dự tính trên lại rơi vào
tình trạng cũ. Riêng giáo dân Hà Nội nhất định chuộc cha ra bằng mọi cách. Họ
đem tiền đến bà dì của chúa Trịnh để xin trả tự do cho cha. Ðọc bản khiếu nại,
Cha Tế không hài lòng về lời lẽ nói cha chỉ là thương gia bị gán ghép tội theo
đạo Kitô.... Suốt trong năm đó cha rửa tội thêm được 31 người lớn và 23 trẻ em.
Năm 1744, hồ sơ của
cha được xét lại và họ giam cha ngặt hơn. Ngày 3-3-1744, cha và 4 giáo dân được
đưa ra tòa án. Trên đường đi, viên ký lục đòi lấy cỗ tràng hạt của cha. Tại tòa
án, các quan xem xét cỗ tràng hạt rất kỹ lưỡng. Quan hỏi hai ảnh mắc vào đó là
gì. Cha thưa là hình hai vị tử vì đạo. Quan bắt ép cha dầy đạp tràng hạt dưới
chân. Cha đã mạnh mẽ nói là không khi nào cha làm điều lầm lỗi ấy. Lúc ấy quan
hỏi sư Tình có làm điều ấy không? Sư Tình chỉ chờ có thế đã vội vã cầm lấy
tràng hạt ném xuống đất, sửa soạn đạp lên, tức thì Cha Tế lăn xả vào để lấy lại.
Một tên lính hầu túm lấy tóc cha lôi ra. Không làm gì được, Cha Tế hét lên:
"Tại sao các ngươi bách hại đạo Chúa Kitô? Chính các ngươi là căn cớ của
bao nhiêu tai họa giáng xuống trên nước này".
Các quan liền viết
án xử trảm cha Tế, còn các giáo dân được trả tự do, cha con sư Tình được tha bổng.
Cha Tế được đưa về nhà tù, lòng đầy niềm hy vọng giờ lãnh triều thiên tử đạo đã
tới gần.
Ngày 30-5-1744,
lính canh áp giải một tù nhân khác, đó là Cha Ðậu, người cùng Dòng với Cha Tế.
Hai người lính dũng cảm của đức tin hân hoan được gặp nhau, nâng đỡ nhau bằng
các bí tích và cầu nguyện. Trong hai năm ấy cha rửa tội được 32 người lớn và 41
trẻ em.
Tháng 8 năm sau vì
có hạn hán nên chúa Trịnh cho rước Phật Bà Quan Âm, đồng thời ân xá cho nhiều
tù nhân, nhưng vẫn giam giữ hai cha trong tù. Lợi dụng thời gian này, hai cha
biến nhà tù thành nơi giảng đạo. Giáo dân lại nói với cha về đề nghị của quan
cai ngục là sẽ trả tự do cho cha bằng giá tiền mua chuộc. Cha Tế cương quyết
không để cho giáo dân phải tốn một xu.
Một tín hữu báo tin
là các quan đã làm án ngày 19-1-1745, ngày 21 sẽ công bố, và ngày hôm sau hành
quyết. Giáo dân tính cử đại diện đến gặp chúa Trịnh. Cha Tế rất buồn nói với
các thầy giảng: "Chúng ta phải khuyên bảo giáo dân trở lại và trung thành
với đức tin, nếu trong hoàn cảnh này chúng ta tỏ ra khiếp sợ để cho họ sửa án
và mua chuộc mạng sống bằng tiền bạc thì lương dân họ sẽ thêm tin vào đạo của họ
hơn và giáo dân sẽ không còn muốn chịu khổ vì đức tin nữa".
Vì vậy cha truyền lệnh
cho họ hủy bỏ toan tính đó. Dân chúng rất đau buồn, nhưng cha Tế lại vui mừng hớn
hở. Ngài dùng những ngày còn lại để cầu nguyện và sửa soạn tâm hồn. Sau khi lần
hạt chung với họ lần cuối, cha khuyên nhủ: "Anh chị em quí mến, cũng như
Chúa Kitô trong bữa tiệc ly, tôi muốn khuyên anh chị em theo lời của Chúa, anh
chị em hãy yêu thương nhau như ruột thịt, hãy vững mạnh trong đức tin mà anh chị
em tuyên xưng và hãy sẵn sàng chịu mọi sự khó và nhất là đặt niềm cậy trông vào
một Chúa mà thôi. Hãy ước ao những sự trên trời và hãy khinh chê những của cải
vui sướng chóng qua đời này".
Mọi người cúi mình
hôn xiềng xích của ngài. Ngài lại nói với họ: "Tử đạo là một ơn đặc biệt
do Chúa ban nhưng không, chứ không phải do công trạng hay xứng đáng gì".
Khoảng ba giờ sáng,
hai cha dâng lễ, rồi đến chào các lính coi tù cũng như các bạn tù. Giáo dân được
phép vào rất đông để thăm cha lần cuối. Cha Ðậu không được chung một vinh dự
nhưng đã xin quan cho theo ra tới pháp trường. Theo lẽ các tù nhân khi đi ra
nơi hành quyết thường được dẫn qua phủ chúa để có thể kháng cáo lần chót. Lợi dụng
cơ hội này giáo dân làm một bản kiến nghị nhờ Cha Ðậu mang theo đưa cho quan
khi tới phủ chúa. Mặc dù Cha Tế không đồng ý nhưng Cha Ðậu vẫn làm theo ý của
giáo dân.
Cha Tế hân hoan đi
đầu vì được giống Chúa Kitô. Trong đám tù nhân có người xin cha tha tội. Ði
ngang qua phủ chúa, Cha Ðậu liền đưa bản kiến nghị. Chúa Trịnh thấy Cha Ðậu dám
bạo gan như thế thì nổi giận ra lệnh xử trảm ngài luôn một lúc với Cha Tế. Khoảng
sau trưa, đoàn người đến Ðồng Mơ, nơi hành quyết. Vừa tới nơi, hai cha quì xuống
hôn mảnh đất. Cha Tế vì yếu sức nên ngồi xuống đất chờ đợi, trong khi lính sửa
soạn việc hành quyết. Hai cha nói giáo dân cho mỗi người lính đao phủ một số tiền.
Hằng ngàn người im lặng đứng xung quanh. Quan giám sát lên tiếng: "Cụ Tế,
tôi rất kính trọng cụ và rất đau buồn phải làm việc này như quan án đã ra lệnh,
xin cụ hiểu cho, tôi không làm gì khác hơn được. Xin cụ quì thẳng lên để tôi
trói vào cọc".
Giây và xích ở tay
chân được cởi ra. Hai tên lính cầm gươm đồng loạt chém đầu hai vị tử đạo. Hôm ấy
là ngày thứ Sáu, 22-1-1745.
Thông thường mỗi
khi có vụ xử tử, lúc chém đầu mọi người chạy mất vì sợ hồn kẻ chết nhập vào,
nhưng lần này trái lại họ đến gần hơn và ngay sau đó tuốn vào thấm máu đào, lấy
những vật dụng và xiềng xích của hai vị làm kỉ niệm. Giáo dân phải canh chừng để
không ai lấy trộm thi thể hai đấng thánh. Tối hôm đó, Cha Phêrô Xavier tắm rửa
xác các đấng và an táng tại Lục Thủy Hạ, mặc dầu các xứ khác như xứ Kẻ Bùi,
Trung Linh, và Trung Lễ đòi quyền được cất xác các ngài. Một tuần sau, mộ của
các ngài được mở ra để táng trong nhà thờ theo lệnh của đức giám mục, nhưng lạ
thay, xác các ngài không bốc mùi thối gì, giáo dân còn ngửi thấy thoang thoảng
một mùi thơm lạ lùng.
Ngày 20-05-1906,
các Ngài được Đức Piô X suy tôn lên bậc chân phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan
Phaolô II suy tôn lên hàng Hiển Thánh.
(ST)
Trường thi tử Đạo.
Cuộc tử đạo linh mục Federich Tế
Tại Việt Nam phải kể đầu tiên
Mười lăm tuổi nhập tu liền
Thụ phong linh mục qua miền nước Phi
Tại Việt Nam phải kể đầu tiên
Mười lăm tuổi nhập tu liền
Thụ phong linh mục qua miền nước Phi
Thừa sai Pháp xin đi rao giảng
Nhưng bề trên ngăn cản không cho
Rôma thuyên chuyển thăm dò
Nơi đây cứu xét thuận cho lên đường
Nhưng bề trên ngăn cản không cho
Rôma thuyên chuyển thăm dò
Nơi đây cứu xét thuận cho lên đường
Cha được gởi quê hương miền Bắc
Nước Việt Nam dìu dắt đoàn chiên
Ngài lo tiếng Việt học liền
Ở làng Lục Thủy thuộc miền tỉnh Nam
Nước Việt Nam dìu dắt đoàn chiên
Ngài lo tiếng Việt học liền
Ở làng Lục Thủy thuộc miền tỉnh Nam
Cùng Cha Tế cộng đoàn dâng lễ
Ðang cám ơn như thể chia tay
Toán người ập đến bao vây
Xông vào lục soát chốn này hung hăng
Ðang cám ơn như thể chia tay
Toán người ập đến bao vây
Xông vào lục soát chốn này hung hăng
Cha liền bảo thưa rằng chạy trốn
Còn phần Cha khiêm tốn nạp mình
Giuse khẩn nguyện cầu kinh
Xin Ngài phù hộ an bình cho Cha
Còn phần Cha khiêm tốn nạp mình
Giuse khẩn nguyện cầu kinh
Xin Ngài phù hộ an bình cho Cha
Nhìn bọn chúng Ngài đà liền hỏi
Ði tìm ai Người nói ta đây
Sư Tình ra lệnh lấy giây
Bắt Cha trói lại đưa ngay xuống thuyền
Ði tìm ai Người nói ta đây
Sư Tình ra lệnh lấy giây
Bắt Cha trói lại đưa ngay xuống thuyền
Mấy giáo hữu theo liền đứng ngó
Tại bờ sông chúng nó bắt luôn
Lòng Cha Tế rất u buồn
Bắt tôi là đủ tha luôn mấy người
Tại bờ sông chúng nó bắt luôn
Lòng Cha Tế rất u buồn
Bắt tôi là đủ tha luôn mấy người
Như mệnh lệnh chúng thời cởi trói
Trả tự do tiếng nói Sư Tình
Ðem Cha Tế giam một mình
Thủy Nhai Thượng để Sư Tình hỏi Cha
Trả tự do tiếng nói Sư Tình
Ðem Cha Tế giam một mình
Thủy Nhai Thượng để Sư Tình hỏi Cha
Ngươi bị bắt gặp ta có sợ
Ngài trả lời giúp đỡ giáo dân
Riêng ta vì Chúa đâu cần
Sư Tình sai lính tay cầm gươm đao
Ngài trả lời giúp đỡ giáo dân
Riêng ta vì Chúa đâu cần
Sư Tình sai lính tay cầm gươm đao
Cột nhà hội trói vào Cha Tế
Án tử hình chúng để ngay bên
Triều đình ban lệnh nói lên
Nhưng Cha đâu sợ ngày đêm rao truyền
Án tử hình chúng để ngay bên
Triều đình ban lệnh nói lên
Nhưng Cha đâu sợ ngày đêm rao truyền
Chúng móc nối đòi tiền để chuộc
Thả Cha ra bắt buộc khó khăn
Năm trăm lượng đổi Chủ chăn
Giáo dân thấy vậy thưa rằng quan trên
Thả Cha ra bắt buộc khó khăn
Năm trăm lượng đổi Chủ chăn
Giáo dân thấy vậy thưa rằng quan trên
Cử đại diện thưa lên thượng đỉnh
Quỷ quyệt thay sẵn tính bạo tàn
Cấp cao lại quá tham lam
Thả câu nước đục liên can Sư Tình
Quỷ quyệt thay sẵn tính bạo tàn
Cấp cao lại quá tham lam
Thả câu nước đục liên can Sư Tình
Giữ đạo trưởng nhà mình trái phép
Phải lo tiền khỏi ghép tội oan
Quan trên lợi cả đôi đàng
Kinh đô đem nộp Thượng Hoàng thưởng công
Phải lo tiền khỏi ghép tội oan
Quan trên lợi cả đôi đàng
Kinh đô đem nộp Thượng Hoàng thưởng công
Tội Cha Tế đeo gông khổ cực
Tại trại giam nóng nực khổ đau
Quan lo tìm thuốc chữa mau
Người nhà săn sóc ngõ hầu hỏi cung
Tại trại giam nóng nực khổ đau
Quan lo tìm thuốc chữa mau
Người nhà săn sóc ngõ hầu hỏi cung
Tại Phủ Chúa quyền dùng kháng cáo
Cơ hội này loan báo giáo dân
Cử Cha Ðậu đóng góp phần
Ði qua Phủ Chúa tới gần đưa Quan
Cơ hội này loan báo giáo dân
Cử Cha Ðậu đóng góp phần
Ði qua Phủ Chúa tới gần đưa Quan
Chúa Trịnh thấy Cha gan can đảm
Tại Ðồng Mơ xử trảm hai Cha
Pháp trường giáo hữu gần xa
Ðọc kinh tin kính tiễn Cha lên đường
Tại Ðồng Mơ xử trảm hai Cha
Pháp trường giáo hữu gần xa
Ðọc kinh tin kính tiễn Cha lên đường
Linh mục Tế sinh năm Nhâm Ngọ (1702)
Tại Tostosa nước họ (Tây) Ban Nha
Ất Sửu (1745) tử đạo nước ta
Bính Ngọ (1906) phong thánh hoan ca Nước Trời
Tại Tostosa nước họ (Tây) Ban Nha
Ất Sửu (1745) tử đạo nước ta
Bính Ngọ (1906) phong thánh hoan ca Nước Trời
Lời bất hủ:
Cha trả lời quan
tra hỏi: "Chẳng ai có quyền cấm giảng đạo Thiên Chúa đã truyền loan báo
cho mọi dân mọi nước. Ai cấm, tức là cướp quyền của Thiên Chúa".
Nguồn: tinmung.net
0 nhận xét:
Đăng nhận xét