Ðaminh Bùi Văn Úy,
Dòng Ba Ða Minh, thầy giảng; sinh năm1813 tại Tiên Mon, Thái Bình; chết 19
tháng 12, 1839, Cổ Mễ dưới đời vua Minh Mạng. Ngài bị bắt vì có đạo cùng với
Tôma Ðệ và bị xử giảo (thắt cổ) chết vì không chịu bỏ đạo. 27.5.1900, Đức Giáo
Hoàng Lêo XIII đã suy tôn năm vị anh hung tử đạo: Phanxicô Xavie Hà trọng Mậu,
Đaminh Bùi văn Úy, Augustinô Nguyễn văn Mới, Tôma Nguyễn văn Đệ và Stêphanô
Nguyễn văn Vinh lên bậc Chân Phước. Ngày 19.6.1988 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II tôn phong các vị lên bậc hiển thánh. Ngày Lễ kính 19 tháng 12.
Chứng
Tá Tập Thể Trong Lao Tù
Đọc truyện các Thánh Tử
đạo Việt Nam, không ai có thể quên được một chứng tá tập thể của hai thầy giảng,
ba giáo dân ở trong tù. Năm vị cùng bị giam chung với cha Tự và ông trùm Cảnh,
nhưng hai vị này tử đạo trước (5.9.1838). Dù sống trong ngược đãi, dù bị kiểm
soát gắt gao, năm vị đã gắn bó với nhau trong tình anh em tha thiết, cùng sống
đức tin kiên vững và nỗ lực làm chứng cho Thiên Chúa bằng lời nói, gương sáng
và bằng chính mạng sống mình.
1.
Thánh Phanxicô Xavie HÀ TRỌNG MẬU, Thầy giảng dòng ba Đaminh (1790-1839)
Thầy giảng Phanxicô
Xavie Mậu không những phải chọn lựa giữa cái chết và cuộc sống, thầy còn phải
chọn lựa giữa cái chết và việc làm quan triều đình. Không một chút lưỡng lự, thầy
trả lời vị tổng đốc: "Tôi không ham quyền, tôi chỉ muốn chết vì đạo."
Phanxicô Xavie Hà Trọng
Mậu cất tiếng chào đời năm 1790 tại làng Kẻ Diền, tỉnh Thái Bình. Cậu được cha
mẹ cho đi tu, trở thành thầy giảng và đi giúp nhiều giáo xứ. Khi cha Phêrô Tự bị
bắt, thầy Mậu đang coi họ Nội, thuộc xứ Kẻ Mốt. Được tin cha và thầy Úy bị đưa
về Lương Tài, thầy liền đến đó nghe ngóng tin tức. Giáo hữu gửi thầy trọ ở nhà
một lương dân phía bên kia sông, vì nghĩ rằng lính sẽ không khám xét đến. Ai ngờ,
chính người chủ nhà đi báo cho quan kiếm tiền thưởng, thế là thầy bị bắt.
Thầy bị dẫn đến dinh
quan Lương Tài. Có mặt cha Tự ở đó. Quan hỏi thầy là ai, thầy đáp: "Thưa
quan, tôi là một môn đệ thân tín của cha đây". Cha Tự ra dấu nhắc thầy đừng
khai rõ, may ra có thể chuộc về được chăng, nhưng thầy nói nhỏ với cha:
"Xin cha thương nhận con là môn sinh, để con cũng được tử đạo với
cha."
Kể từ ngày cha Tự và
ông trùm Cảnh bị đem đi xử trảm, thầy Mậu trở thành cột trụ nâng đỡ bốn người
còn sót lại, là thầy Úy, các anh Mới, Vinh và Đệ. Thầy nhắc anh em sống huynh đệ,
an ủi giúp đỡ nhau. Thầy đại diện anh em viết thơ ra ngoài, hoặc trả lời với
các quan. Đặc biệt thầy động viên anh em hăng hái làm việc tông đồ ngay trong nhà
tù. Trong hồ sơ phong thánh, cha Huấn đã dựa vào các thơ của thầy làm chứng rằng:
"Thầy Mậu vẫn dạy giáo lý cho các tù nhân, và rửa tội được bốn mươi bốn
người. Trong đó có một tử tội tên Hưng mới học đạo một tháng thì đến ngày xử,
anh xin quan hoãn lại ít giờ để rửa tội, sau đó vui vẻ tiến ra pháp trường...".
Khi quan nói: "Kẻ
nào chết vì không chịu bước qua thập giá là ngu dại, không biết thương cha mẹ
già." Thầy giải thích: "Thưa quan, cha mẹ sinh chúng tôi, nhưng ngay
cha mẹ chúng tôi có ở trên đời, cũng là nhờ quyền năng của Chúa." Khi quan
tuyên đọc bản án xử tử, thầy bình tĩnh đáp lại: "Thưa quan, chúng tôi mong
ước về với Chúa, như nai mong tìm thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án lệnh của
Đức vua."
2.
Thánh Đaminh BÙI VĂN ÚY Thầy giảng dòng ba Đaminh (1812-1839)
"Nếu tôi cả gan
bước lên thánh giá, thì tôi xúc phạm đến Chúa và bất hiếu với cha mẹ. Vì song
thân sinh ra tôi, đã dạy tôi trung thành với niềm tin cho đến chết."
Thầy Đaminh Úy đã đặt
trọn niềm tin của mình trong truyền thống tiên tổ. Không biết cha mẹ căn dặn thầy
trung kiên dù phải tử đạo vào lúc nào, khi mới có bách hại hay khi vào thăm
trong tù? Nhưng rõ rệt là với thầy, phản bội đức tin là phản lại những người đã
nhọc công vun trồng niềm tin cho mình.
Đaminh Bùi văn Úy sinh
năm 1812 tại họ Tiền Môn, làng Kẻ Rèm, tỉnh Thái Bình. Từ bé cậu đã được gia
đình gửi vào nhà xứ sống với cha Tự. Sau khi học thành thầy giảng thầy luôn hoạt
động bên cha tại giáo xứ Kẻ Đanh rồi Kẻ Mốt (Bắc Ninh), thì bị bắt, lúc đó thầy
mới 26 tuổi. Bất cứ ai gặp thầy Úy đều công nhận thầy hiền lành, có lòng yêu mến
Chúa đặc biệt và là người trợ thủ đắc lực của cha Tự trong công tác, nhất là
khi cuộc bách hại của vua Minh Mạng bùng nổ. Ước mơ lớn nhất của thầy là được
đóng vai "Lê Lai thế mạng" để cha Tự khỏi bị bắt. Khi đào hang trú ẩn,
thầy làm hai ngăn rồi tình nguyện ở ngăn bên ngoài. Thầy nói với mọi người:
"Nếu các quan đến truy lùng, tôi sẽ ra trước nộp mình để cha khỏi bị bắt,
hầu cha có thể giúp anh chị em."
Ngày 29.6.1838, lính đến
vây làng Kẻ Mốt, đã bắt thầy Úy chung với cha Tự. Cha dự định khai thầy chỉ là
giáo hữu vào làm bếp để đỡ nguy hiểm, nhưng thầy nói: "Xin cha cứ nói con
là thầy giảng, may ra cùng được phúc tử đạo với cha"
Rồi thầy xin xưng tội
để chuẩn bị tâm hồn. Một lần tương kế tựu kế, quan nói dối thầy: "Cha Tự
xuất giáo rồi, sao anh còn cố chấp thế?" Thầy bình tĩnh trả lời: "Vô
lý, cha tôi không bao giờ làm vậy, mà dù có thực như thế, tôi cũng không chịu
xuất giáo đâu."
Lần khác, quan như muốn
dạy khôn thầy: "Anh còn trẻ, hãy nghĩ lại và khôn hơn một chút, ta chỉ yêu
cầu anh bước qua một khúc gỗ mà." Thầy Úy đáp: "Đúng là khúc gỗ, thưa
quan, nhưng khúc gỗ đó lại tượng trưng cho Chúa tôi thờ. Quan nghĩ sao nếu tôi
giày đạp lên ảnh vẽ hình cha mẹ tôi?" Hôm khác, khi bị dụ dỗ bước qua
thánh giá, thầy khẳng khái nói: "Thưa quan, quan có dám bước qua mặt đức
vua không, mà lại bảo tôi bước qua mặt Chúa tôi? Nhưng dù quan có bước qua mặt
vua, thì tôi cũng không bước qua mặt Chúa tôi được."
Quan nghiêm nghị phán:
“Tên phạm thượng, ta sẽ chém đầu mi." Người chiến sĩ đức tin vui vẻ reo
lên: "Anh em ơi, tôi sắp được chém rồi".
Nhưng phúc trường sinh
đến với thầy không quá sớm như vậy.
3.
Thánh Augustinô NGUYỄN VĂN MỚI Nông dân dòng ba Đaminh (1806-1839)
Tuy là một tân tòng mới
theo đạo, anh Augustinô Mới đã biểu lộ một đức tin kiên cường, không thua kém
gì những Kitô hữu vững tin nhất.
Augustinô Nguyễn văn Mới
sinh năm 1806 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái Bình, trong một gia đình nông dân ngoại
giáo. Đến tuổi trưởng thành, anh đến làng Đức Trai, xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) để làm
thuê làm mướn. Tiếp xúc với giáo hữu ở đây, càng ngày càng thấy mến đạo, và xin
theo học giáo lý. Năm 31 tuổi, anh được cha Tự rửa tội và đặt tên thánh bổn mạng
là Augustinô.
Mấy năm sau, cha Tự
cũng chủ sự lễ thành hôn cho anh với một thiếu nữ trong xứ. Theo các lời chứng
trong hồ sơ phong thánh, anh Augustinô Mới sống đạo rất tốt, đặc biệt là đọc
kinh Mân Côi mỗi tối. Dù có ngày lao động vất vả đến mãi khuya mới về, anh cũng
không quên kinh Mân Côi kính Đức Mẹ.
Ngày 29-6-1838, khi
quân lính bao vây làng Kẻ Mốt và bắt cha Tự, họ buộc toàn dân phải ra đình điểm
danh, rồi bước qua thánh giá. Một số tín hữu nhanh chân lẫn tránh được, một số
nhát gan thực hiện lời yêu cầu của lính. Các anh Mới, Vinh và Đệ cương quyết
không chịu đạp lên thánh giá, nên bị bắt và áp giải chung với cha Tự, ông trùm
Cảnh và hai thầy Úy và Mậu lên giam tại Bắc Ninh.
4.
Thánh Tôma NGUYỄN VĂN ĐỆ Thợ may dòng ba Đaminh (1811-1839)
Hai mươi tám tuổi đời,
một người vợ ba người con, đó là mối ưu tư trắc trở của anh Tôma Đệ trong những
ngày bị giam cầm. Không thể bỏ đức tin, nhưng tương lai của người vợ trẻ và đàn
con dại sẽ ra sao? Trong nhiều ngày anh suy nghĩ và tha thiết cầu nguyện xin
Chúa soi sáng. Cuối cùng anh tìm được an bình trong tâm hồn, phó thác tất cả
trong bàn tay Chúa quan phòng. Anh nói với người vợ đến thăm:
"Đừng khóc mình ạ.
Mình về dạy dỗ các con nên người, dạy chúng thờ phượng Chúa. Tôi đã dâng mình
và các con cho Ngài. Nhớ cầu xin Chúa cho tôi thêm sức mạnh để nhẫn nại đến
cùng."
Ra đời trong một gia
đình Công giáo tại làng Bồ Trang, tỉnh Thái Bình năm 1811, Tôma Nguyễn văn Đệ
vì lý do sinh kế, theo cha mẹ về xứ Kẻ Mốt (Bắc Ninh) và ở ngay gần nhà thờ. Lớn
lên anh theo nghề thợ may và được mọi người yêu chuộng. Anh rất nhiệt tình với
việc trong xứ trong họ. Hầu hết cờ quạt, đồ trang hoàng trong nhà thờ và nhà xứ
đều nhờ đến bàn tay khéo léo và sáng tạo của anh. Khi kinh tế gia đình ổn định,
anh lập gia đình, ra ở riêng và sinh hạ được ba người con.
Ngày 29.6.1838, quân
lính vây làng Kẻ Mốt, và ép buộc mọi người trên 18 tuổi phải đạp lên thánh giá.
Anh lẩn trốn ra phía sau nhà. Đến khi quân lính xồng xộc vào nhà lùng bắt, anh
biết mình không thể tránh được nữa, liền giã từ vợ, dặn đưa con về bên ngoại,
ôm hôn từng đứa rồi ra trình diện. Đến trước thánh giá, anh Đệ quỳ xuống cầu
nguyện lớn rằng: "Lạy Chúa, sẽ không bao giờ con bước qua mặt ngài."
Quân lính áp giải anh
Tôma Đệ cùng với cha Tự ông trùm Cảnh, hai thầy Úy, Mậu và các anh Mới và Vinh
về giam tại Bắc Ninh.
5.
Thánh Stêphanô NGUYỄN VĂN VINH Tá điền dòng ba Đaminh (1813-1839)
Thánh Stêphanô Vinh là
một trường hợp hy hữu, trong danh mục các thánh tử đạo Việt Nam. Khi bị bắt,
anh mới chỉ là dự tòng chưa được rửa tội. Nhưng với những hiểu biết ít ỏi về đạo,
anh đã kiên trì làm chứng cho chân lý. Mặc dù khi vô tù anh mới chính thức gia
nhập đạo, rồi thành hội viên dòng ba Đaminh, nhưng anh không thua kém ai về
lòng can đảm tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa.
Stêphanô Nguyễn văn
Vinh sinh năm 1813 tại làng Bồ Trang tỉnh Thái Bình. Sống trong một gia đình ngoại
giáo rất nghèo, một miếng đất cũng không có, anh Vinh quanh năm phải làm thuê
làm mướn cho các gia đình Kẻ Mốt (Bắc Ninh). Trường học duy nhất anh ham thích
và theo được là các lớp giáo lý, nơi anh tập đánh vần và học truyền khẩu. Đặc
biệt anh đem các điều học ở đó ra thực hành trong cuộc sống. Có điều là người
ta không biết vì sao anh chưa được rửa tội. Mọi người đều mến thương anh vì anh
đơn sơ, chất phác, khỏe mạnh và thật thà. Trong công việc anh không bao giờ làm
cho qua loa chiếu lệ, ai thuê việc gì, anh cũng chu toàn tốt đẹp không cần kiểm
soát, không có gì để chê trách. Cho đến khi bị bắt (lúc 26 tuổi) anh vẫn sống độc
thân chưa lập gia đình.
Ngày 29.6.1838, khi
quan quân vây bắt cha Tự ở Kẻ Mốt, và bắt mọi người phải đạp qua thánh giá,
chàng thanh niên 25 tuổi này đã anh dũng nói thẳng với họ rằng: "Tôi thà
chết chứ không bao giờ chịu đạp lên thánh giá, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo
thật."
Vì lời nói này, quan
quân tưởng anh là người trong đạo, thế là họ bắt anh Vinh và áp giải về trại
giam Bắc Ninh chung với cha Tự, ông trùm Cảnh, thầy Úy, thầy Mậu, anh Mới và
anh Đệ. Chính tại đây, anh Vinh được diễm phúc làm người Kitô hữu, được hân hạnh
làm con Cha Thánh Đaminh. Suốt hành trình tử đạo, anh là một nhân chứng trầm lặng,
chỉ đồng tình với các vị khác, nhưng gông cùm, xiềng xích và tra tấn không lần
nào có thể làm anh sa ngã hay thối chí. Chọn quan thầy Stêphanô trong tù, anh
cương quyết noi theo vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội đến hơi thở cuối cùng.
Lời
An Ủi Ấm Lòng.
Sau một tháng dọa nạt
tra khảo bảy chiến sĩ đức tin nhưng vô hiệu, ngày 27.7.1838, quan tỉnh Bắc Ninh
đệ án vào triều xin xử giáo cha Tự và ông trùm Cảnh, còn năm vị kia quan cho là
nhẹ dạ tin theo, nên xin đánh mỗi người một trăm roi rồi phát lưu vào Bình Định.
Luật vua thời đó xử giảo các phù thủy, đồng cốt, còn những kẻ a dua chỉ bị đánh
đòn và phát lưu ba trăm dặm. Thế nhưng vua Minh Mạng cho rằng tội theo đạo
Gia-tô thuộc loại nặng hơn, nên quyết định xử chém hai vị trên ngay tức khắc,
còn tất cả sẽ bị xử giảo sau một năm nếu không chịu thay đổi ý kiến.
Ngày 5.9.1838, khi biết
tin cha Phêrô Tự và ông trùm Cảnh đã bị chém tại pháp trường Kinh Bắc, năm vị
trong ngục buồn bã nhớ thương. Thầy Mậu kêu gọi anh em ngồi lại bên nhau cùng đọc
kinh, vừa khích lệ nhau, vừa ôn lại những lời khuyên của cha mình. Sau đó ba buổi
tối, như chính các vị thuật lại, trong lúc họ đang cầu nguyện, thì bất ngờ tất
cả đều thấy như cha Tự hiện ra ngay bên an ủi họ: "Các con đừng buồn, chắc
chắn các con sẽ còn được chết vì đạo. Tuy nhiên, các con sẽ còn phải qua một thời
gian thử thách nữa, để xứng đáng với phúc trọng này." Có thể đó chỉ là giấc
mơ chứ không phải sự thật, cũng có thể đó là lời nhắn nhủ cuối cùng của vị linh
mục, nhưng kể từ ngày đó họ hết sầu buồn, tìm lại được can đảm để nêu gương
ngay trong cảnh quẫn bách ở trong trại giam.
Tuyên
Khấn Trong Ngục Tù.
Ấn tượng ghi nét sâu đậm
vào lòng năm vị chứng nhân là lời cha Tự trong ngày lãnh phúc tử đạo. Cha mặc
áo dòng và nói với mọi người về chiếc áo đó. Trước đây bốn vị, đến khi vào tù
có thêm anh Vinh, đã mặc áo dòng ba Thánh Đaminh, nhưng chưa ai khấn cả. Thầy Mậu
liền viết thơ cho cha Huấn dòng Đaminh để bày tỏ niềm ước nguyện được hiệp
thông với dòng cách trọn vẹn. Thầy viết:
"Chúng con tất cả
là năm tập sinh của dòng ba Đaminh, nhưng chúng con không thể giữ chay đủ các
ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy được, nên chúng con xin cha thương rộng
phép chuẩn chước cho sự thiếu sót đó. Qua thơ này, chúng con xin tuyên khấn trọn
đời. Vì chúng con không thể đọc lời tuyên khấn trong tay cha được, nên bằng những
dòng viết này chúng con coi như thực sự tuyên khấn trước mặt cha vậy, xin cha
cho phép."
"Để tôn vinh và
ngợi khen Thiên chúa toàn năng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng
con là Phanxicô, Đaminh, Augustinô, Tôma và Stêphanô, trước mặt cha Huấn, đại
diện cha Hermosilla, giám đốc dòng ba hãm mình Thánh Đaminh chúng con xin hứa
và ước ao giữ lề luật và tập tục của dòng cho đến chết."
Những chữ "cho đến
chết" trong ngục tù khi đó chắc hẳn phải có âm vang đặc biệt đối với các vị.
Được nối kết với truyền thống hơn sáu trăm năm truyền giáo của Thánh Phụ và một
dòng tu lớn trong Giáo hội, từ nay năm anh em tích cực hơn với việc tông đồ. Dưới
sự điều hành của thầy Mậu, năm hội viên dòng ba chia nhau tiếp xúc gặp gỡ các bạn
tù, giới thiệu với họ về Thiên Chúa, cắt nghĩa giáo lý, rồi dẫn họ đến thầy Mậu
lãnh nhận bí tích rửa tội. Ít ra các vị đã rửa tội được bốn mươi bốn người. Ngục
tù giờ đây trở thành nguyện đường, hằng ngày vang lên những lời chúc tụng Thiên
Chúa, lời cầu nguyện cho Giáo hội và cho mọi người, mọi giới được đầy tràn ơn
lành của Ngài.
Làm
Chứng Trước Quan Quyền.
Thấm thoát hơn một năm
đã trôi quan, triều đình quyết định lại việc xử giảo cả năm người. Ngày
19.8.1839 quan cho điệu tất cả ra tòa, vẫn để thánh giá một bên, bên kia là dụng
cụ tra tấn. Quan nói: "Các anh bị giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã
nhiều, vậy bỏ đạo đi, ta tha về với vợ con." Thầy Mậu đại diện anh em trả
lời: "Chúng tôi đã quyết tâm trung thành với Chúa, nếu quan ra lệnh chém đầu
hay giết cách nào khác, chúng tôi đều sẵn sàng."
Rồi cả năm vị quỳ xuống
bái lạy thánh giá và cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con, con xin phó
thác hồn con trong tay Chúa."
Thất vọng, quan cho
lính đưa tất cả về ngục và thốt lên: "Bọn này không thể tha thứ được, mà
chúng có thèm được tha đâu."
Ngày 24.11, năm vị phải
ra toà một lần nữa. Quang cảnh vẫn như lần trước, và các tôi tớ Chúa vẫn một mực
cương quyết không chối đạo. Thầy Mậu thay mặt anh em nói với quan: "Chúng
tôi chỉ tôn thờ một Thiên Chúa là Cha chung muôn loài, là Vua trên hết các vua,
là Đấng chúng tôi mong được đổ máu ra để chứng tỏ lòng trung thành và yêu mến."
Như Nai Rừng Mong Mỏi
Tìm Về Suối Nước Trong Ngày 19.12.1839, trước khi đi xử, quan cho năm vị một cơ
hội cuối cùng. Ông nói: "Chỉ cần đi ngang qua phía chân tượng, ta cũng
tha." Sau ông lại nói: "Chỉ cần đi vòng quanh tượng ta cũng
tha." Nhưng các vị chứng nhân đức tin không dễ bị mắc lừa, họ bảo nhau quỳ
xuống đọc kinh Kính Danh Chúa Giêsu. Có lẽ do ảnh hưởng những lời kinh Giáo hội
trong mùa Vọng, đón chờ Chúa giáng sinh, thầy Mậu nói với quan những lời kinh
Thánh vịnh 41 (c 1-2): Thưa quan, chúng tôi ước mong về Chúa như nai mong tìm
thấy suối vậy. Xin quan cứ thi hành án lệnh của nhà vua."
Biết không thể làm nao
núng ý chí sắt đá của những con người này được nữa, quan liền truyền đem đi xử
với bản án như sau: "Bọn gian ác theo Gia-tô tả đạo, mặc dầu đã khuyên răn
sửa phạt, vẫn ngoan cố không chịu bước qua thập giá, nay chúng bị xử giảo"
Trên đường ra pháp trường,
thầy Mậu rảo chân bước đi trước, các anh khác bước theo sau, tất cả đều tỏ ra
hân hoan kiên cường. Dân chúng hiếu kỳ đi xem rất đông và xì xào với nhau là
các vị này bị giết oan. Theo gương thầy Mậu, các chứng nhân tươi cười với mọi
ngườỉ: "Anh em chúng tôi đang tiến về thiên đàng đây." Khi tới nơi xử,
mỗi vị bị trói vào một cọc đã chôn sẵn. Rồi cùng một lúc, lý hình xiết cổ các vị
bằng giây thừng cho đến lúc tắt thở. Các tín hữu đem thi thể các vị về an táng ở
họ đạo mình. Thánh Mậu ở Kẻ La, Thánh Úy ở Đồng Tiến, Thánh Mới ở Phượng Vĩ,
Thánh Đệ ở Phong Cốc và Thánh Vinh ở Hương La, tất cả đều thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 27.5.1900, Đức
Giáo Hoàng Lêo XIII đã suy tôn năm vị anh hung tử đạo: Phanxicô Xavie Hà trọng
Mậu, Đaminh Bùi văn Úy, Augustinô Nguyễn văn Mới, Tôma Nguyễn văn Đệ và
Stêphanô Nguyễn văn Vinh lên bậc Chân Phước.
Ngày 19.6.1988 Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong các vị lên bậc hiển thánh.
Lễ Nhớ: Ngày 19 tháng
12
(ST)
Trường
thi tử đạo
Thầy Ðôminicô Bùi Văn
Uý
Sinh NhâmThân (1812) địa chỉ Kẻ Riền
Cha xứ Tự thấy Uý hiền
Liền xin cha mẹ gởi lên theo ngài
Sinh NhâmThân (1812) địa chỉ Kẻ Riền
Cha xứ Tự thấy Uý hiền
Liền xin cha mẹ gởi lên theo ngài
Khi Cha Tự bài sai Kẻ
Mốt
Ðã đem đi Cậu tốt theo Ngài
Tín trung Cha Tự không sai
Thời gian cấm đạo chạy hoài trốn chui
Ðã đem đi Cậu tốt theo Ngài
Tín trung Cha Tự không sai
Thời gian cấm đạo chạy hoài trốn chui
Cha với Cậu ngọt bùi
chia sẻ
Cậu đào hầm dấu kẻ báo quan
Hai tầng kín đáo vững vàng
Tầng trên Cậu ở, kỹ càng dưới Cha
Cậu đào hầm dấu kẻ báo quan
Hai tầng kín đáo vững vàng
Tầng trên Cậu ở, kỹ càng dưới Cha
Cậu Úy sợ chiên mà mất
chủ
Bảo vệ Cha phòng thủ đêm ngày
Quan phòng ý Chúa đổi thay
Cha con bị bắt một ngày với nhau
Bảo vệ Cha phòng thủ đêm ngày
Quan phòng ý Chúa đổi thay
Cha con bị bắt một ngày với nhau
Quan cho đánh quá đau
Cha Tự
Thầy xin ngay quan cứ đánh con
Tan thây nát thịt vì đòn
Ngài đâu có trốn, lại còn tuổi cao
Thầy xin ngay quan cứ đánh con
Tan thây nát thịt vì đòn
Ngài đâu có trốn, lại còn tuổi cao
Quan bắt lính đem vào ảnh
tượng
Bắt bước qua Thầy cưỡng chống ngay
Bắc Ninh dẫn giải trong ngày
Cha thử Thầy Úy cậu này nấu cơm
Bắt bước qua Thầy cưỡng chống ngay
Bắc Ninh dẫn giải trong ngày
Cha thử Thầy Úy cậu này nấu cơm
Thầy Úy một mực, hơn
không kém
Cùng với Cha được chém bay đầu
Cha Tự nhìn Úy nói câu
Con là Thầy giảng nguyện cầu xin vâng
Cùng với Cha được chém bay đầu
Cha Tự nhìn Úy nói câu
Con là Thầy giảng nguyện cầu xin vâng
Thầy quỳ xuống Cha dâng
giải tội
Quan bắt đeo sớm tối xiềng gông
Tuổi mày còn trẻ phải không
Cái đầu cứng rắn hơn ông thầy mày
Quan bắt đeo sớm tối xiềng gông
Tuổi mày còn trẻ phải không
Cái đầu cứng rắn hơn ông thầy mày
Một lần khác đổi thay
dụ dỗ
Quan nói rằng Ảnh đó bước qua
Tha về làm thuốc tại nhà
Kiếm tiền sinh sống để mà vinh thân
Quan nói rằng Ảnh đó bước qua
Tha về làm thuốc tại nhà
Kiếm tiền sinh sống để mà vinh thân
Thầy Úy nói xa gần dẫn
giải
Quan quá khen nhưng phải nghĩ suy
Chúa mày xa tít thấy gì
Bước qua mảnh gỗ tức thì được tha
Quan quá khen nhưng phải nghĩ suy
Chúa mày xa tít thấy gì
Bước qua mảnh gỗ tức thì được tha
Thưa quan lớn chỉ là
miếng gỗ
Nhưng tượng trưng là chỗ Chúa nằm
Giáng trần cả mấy ngàn năm
Tôi luôn tôn kính tiếng tăm lưu truyền
Nhưng tượng trưng là chỗ Chúa nằm
Giáng trần cả mấy ngàn năm
Tôi luôn tôn kính tiếng tăm lưu truyền
Ngày hành quyết vua
truyền đã tới
Ðiệu pháp trường ranh giới bìa làng
Cột dây xiết cổ dã man
Giáo dân lấy xác về an táng Thầy
Ðiệu pháp trường ranh giới bìa làng
Cột dây xiết cổ dã man
Giáo dân lấy xác về an táng Thầy
Phúc tử đạo năm này Kỷ
Hợi (1839)
Ðiều mà thầy mong đợi bấy nay
Roma Canh Tý (1900) năm này
Phong hàng Á thánh ngày nay tôn thờ
Ðiều mà thầy mong đợi bấy nay
Roma Canh Tý (1900) năm này
Phong hàng Á thánh ngày nay tôn thờ
Lời
bất hủ:
Thầy Uý nói với mọi
người: "Nếu các quan đến truy lùng, tôi sẽ ra trước nộp mình, để cha khỏi
bị bắt, hầu cha có thể giúp anh chị em". Cha Tự cùng bị bắt với cha, để đỡ
nguy hiểm cha định khai với quan và thầy Tự chỉ là giáo dân vào làm bếp thôi.
Nhưng thầy Uý không chịu và thưa rằng: "Xin cha cứ nói con là thầy giảng,
may ra cũng được phúc tử đạo với cha". Có lần quan đánh lừa thầy nói rằng:
"Cha Tự xuất giáo rồi, sao anh còn cố chấp thế?". Thầy bình tĩnh trả
lời: "Vô lý, cha không bao giờ làm vậy, mà dù có thực như thế, tôi cũng
không chịu xuất giáo đâu!". Quan lại dụ ngọt thầy Tự: "Ta chỉ yêu cầu
anh bước qua một khúc gỗ thôi ma". Thầy Uý đáp: "Ðúng là khúc gỗ,
thưa quan, nhưng khúc gỗ đó lại tượng trưng cho Chúa tôi thờ. Quan nghĩ sao nếu
tôi giầy đạp lên ảnh vẽ hình cha mẹ tôi?!".
Hôm khác quan dụ dỗ bước
qua Thánh giá thầy thẳng thắn nói: "Thưa quan, quan có dám bước qua mặt đức
vua không, mà lại bảo tôi bước qua mặt Chúa tôi? Nhưng dù quan có bước qua mặt
vua đi nữa, thì tôi cũng không bước qua mặt Chúa tôi được". Quan nghiêm
nghị phán: "Tên phạm thượng, ta sẽ chém đầu mi". Người chiến sĩ đức
tin vui vẻ reo lên: "Anh em ơi, tôi sắp được chém đầu rồi".
Nguồn: tinmung.net
0 nhận xét:
Đăng nhận xét