Thứ Năm, 5 tháng 4, 2018

Chúa đó – 06/04, Thứ Sáu trong Tuần Bát nhật Phục sinh.


LỜI CHÚA: Ga 21,1-14
Khi ấy, Ðức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Ðiđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Khi trời đã sáng, Ðức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Ðức Giêsu. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không.” Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến nói với Phêrô: “Chúa đó!” Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Simon Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước. Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Ðức Giêsu bảo các ông: “Ðem ít cá mới bắt được tới đây!” Ông Simon Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Ðức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Ðức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. Ðó là lần thứ ba Ðức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
Holy Gospel of Jesus Christ according to Saint John 21:1-14.
Jesus revealed himself again to his disciples at the Sea of Tiberias. He revealed himself in this way. Together were Simon Peter, Thomas called Didymus, Nathanael from Cana in Galilee, Zebedee's sons, and two others of his disciples. Simon Peter said to them, "I am going fishing." They said to him, "We also will come with you." So they went out and got into the boat, but that night they caught nothing.
When it was already dawn, Jesus was standing on the shore; but the disciples did not realize that it was Jesus. Jesus said to them, "Children, have you caught anything to eat?" They answered him, "No." So he said to them, "Cast the net over the right side of the boat and you will find something." So they cast it, and were not able to pull it in because of the number of fish. So the disciple whom Jesus loved said to Peter, "It is the Lord." When Simon Peter heard that it was the Lord, he tucked in his garment, for he was lightly clad, and jumped into the sea. The other disciples came in the boat, for they were not far from shore, only about a hundred yards, dragging the net with the fish. When they climbed out on shore, they saw a charcoal fire with fish on it and bread. Jesus said to them, "Bring some of the fish you just caught." So Simon Peter went over and dragged the net ashore full of one hundred fifty-three large fish. Even though there were so many, the net was not torn. Jesus said to them, "Come, have breakfast." And none of the disciples dared to ask him, "Who are you?" because they realized it was the Lord. Jesus came over and took the bread and gave it to them, and in like manner the fish. This was now the third time Jesus was revealed to his disciples after being raised from the dead.
Copyright © Confraternity of Christian Doctrine, USCCB.
“It is the Lord!”
We are slow to master the great truth, that Christ is, as it were, walking among us, and by His hand, or eye, or voice, bidding us follow Him. We do not understand that His call is a thing which takes place now. We think it took place in the Apostles' days; but we do not believe in it, we do not look out for it in our own case. We have not eyes to see the Lord; far different from the beloved Apostle, who knew Christ even when the rest of the disciples knew Him not. When He stood on the shore after His resurrection, and bade them cast the net into the sea, "that disciple whom Jesus loved saith unto Peter, It is the Lord." [John 21:7.]
Now what I mean is this: that they who are living religiously, have from time to time truths they did not know before, or had no need to consider, brought before them forcibly; truths which involve duties, which are in fact precepts, and claim obedience. In this and such-like ways Christ calls us now. There is nothing miraculous or extraordinary in His dealings with us. He works through our natural faculties and circumstances of life.

Daily Gospel.
SUY NIỆM:
Bảy môn đệ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò. Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh. Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo: “Tôi đi đánh cá đây.” Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại: “Chúng tôi cùng đi với anh.” Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm. Ðây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng. Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm, và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại. Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau. Người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ. Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền. Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo, nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa. Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu. Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh. Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt. Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.
Ðây không phải là một nhóm bạn khép kín, nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi. Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới. Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới. “Không có Thầy anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15,5). Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.
Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ, được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa. Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng. Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông. Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ. Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn. qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài. Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng. Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể. Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ. Ðó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.
Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông và nói: “Anh em đến mà ăn” (c.12). Chúa phục sinh vẫn đến với chúng ta giữa đời  thường, giữa những vất vả lo âu, giữa những thất bại trống vắng. Chúa vẫn đứng trên bờ mà ta cứ tưởng người xa lạ. Ngài vẫn nhẹ nhàng chạm đến nỗi đau của ta: “Các con không có gì ăn ư?” Ngài vẫn mời ta bắt đầu lại dù mệt nhọc và thất vọng: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền.” Chúa phục sinh quyền năng vẫn phục vụ như xưa. Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay bây giờ nhen lửa và nướng cá. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.
Hãy nếm bầu khí huynh đệ của buổi sáng hôm ấy bên bờ hồ. Các môn đệ ngồi vòng tròn quanh Thầy xưa. Họ hết mệt, hết đói vì có cá và bánh. Họ được hong ấm nhờ lửa than hồng, và nhất là nhờ được gần Thầy. Hôm nay tôi cũng được mời sống cho người khác như Đấng phục sinh.

CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chản nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không đươc gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.



Share:
Continue Reading →

Thứ Tư, 4 tháng 4, 2018

Anh em là chứng nhân – 05/04, Thứ Năm trong Tuần Bát nhật Phục sinh.


LỜI CHÚA: Lc 24, 35-48
Hai môn đệ từ Emmau trở về, thuật lại cho Nhóm Mười Một và các bạn hữu những việc đã xảy ra dọc đường và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói, thì chính Ðức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông. Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.”
Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này”.
Holy Gospel of Jesus Christ according to Saint Luke 24:35-48.
The disciples of Jesus recounted what had taken place along the way, and how Jesus was made known to them in the breaking of bread. While they were still speaking about this, he stood in their midst and said to them, "Peace be with you." But they were startled and terrified and thought that they were seeing a ghost. Then he said to them, "Why are you troubled? And why do questions arise in your hearts? Look at my hands and my feet, that it is I myself. Touch me and see, because a ghost does not have flesh and bones as you can see I have." And as he said this, he showed them his hands and his feet. While they were still incredulous for joy and were amazed, he asked them, "Have you anything here to eat?" They gave him a piece of baked fish; he took it and ate it in front of them. He said to them, "These are my words that I spoke to you while I was still with you, that everything written about me in the law of Moses and in the prophets and psalms must be fulfilled."
Then he opened their minds to understand the scriptures. And he said to them, "Thus it is written that the Messiah would suffer and rise from the dead on the third day and that repentance, for the forgiveness of sins, would be preached in his name to all the nations, beginning from Jerusalem. You are witnesses of these things."
Copyright © Confraternity of Christian Doctrine, USCCB.
 “Peace be with you”
Our Lord’s apostles and disciples having withdrawn inside a house for fear, like children without a father or soldiers without a captain, the Lord appeared to them to console them in their affliction and said: “Peace be with you.” As though he wanted to say: “Why are you so fearful and afflicted? If it is doubt that what I promised you concerning my resurrection would not happen: peace be with you, rest in peace, may peace be formed within you, for I am risen. See my hands, touch my wounds; it is I indeed, no longer be afraid, may peace be in you”…
As though he wanted to say: “What is the matter with you? I can well see, my apostles, that you are all fearful and afraid; but from now on you no longer have any cause since I have won the peace for you which I am giving you. Not only does my Father owe it to me because I am his Son, but still more because I bought it at the price of my blood and of these wounds I show you. From now on no longer be cowardly or fearful because the war is over. These past days you had good reason to be afraid when you saw me whipped… beaten, crowned with thorns, wounded from head to foot and bound to the cross. I suffered all kinds of disgrace, dereliction, ignominy… Now, however, do not be afraid anymore; peace be in your hearts; for I am victorious and have struck down all my adversaries: I have overcome the devil, the world, the flesh… Up until now I have frequently given you my peace; now I am showing you how I gained it for you… Peace is everything that I give to those who are dearest to me and so: peace be with you and all those who will believe in me.”

Daily Gospel.
SUY NIỆM:
Sợ ma không phải chỉ là chuyện của trẻ con. Cả người lớn như các tông đồ cũng sợ ma. Có lần Ðức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ, nhưng họ kinh hoàng tưởng Thầy là ma. Khi Ðức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, họ cũng hoảng hốt tưởng là thấy ma. Ðấng sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh khủng. Ngài mời họ xem và đụng đến tay chân Ngài để thấy Ngài là người bằng xương bằng thịt. Ngài còn ăn một miếng cá nướng để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng ma. Khi các môn đệ yếu đức tin, họ coi Ðức Giêsu phục sinh chỉ là bóng ma. Nhưng khi đức tin của họ được củng cố, họ mới thấy Ngài có thực. Lắm khi chúng ta vẫn tưởng Chúa là bóng ma đe dọa, vì Chúa đến gặp ta một cách quá bất ngờ, giữa lúc con thuyền đời ta chòng chành vì gió ngược, hay lúc căn nhà lòng ta khép kín vì nỗi buồn đau. Chúa vẫn đến lúc ta tưởng Ngài không thể đến. Ngài mời gọi ta làm chứng nhân cho Ngài.
Kitô hữu là chứng nhân của niềm hy vọng. Ðức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ. Bạo lực, bất công, dối trá, hận thù bị thảm bại. Quyền lực của bóng tối chỉ là tạm thời. Chiến thắng cuối cùng thuộc về Tình Yêu và Ánh Sáng. Bởi thế người Kitô hữu vẫn hy vọng không ngơi ngay giữa lúc sự dữ có vẻ thắng thế.
Kitô hữu là chứng nhân của sự sống. Thế giới hôm nay bị mê hoặc bởi sự chết. Những cuộc chiến tranh, xung đột, ám sát, bạo động. Những loại ma tuý khiến người ta chết không ra người. Những vụ phá thai quá dễ dàng nơi các cô gái trẻ. Những vụ tự tử chỉ vì những lý do không đâu.
Kitô hữu phải làm cho sự sống có mặt, và hấp dẫn gấp ngàn lần sự chết. Họ phải là nguồn sống dồi dào, sống đơn sơ, thanh bạch, nhưng hạnh phúc.
Kitô hữu là chứng nhân của niềm vui. Bao trẻ thơ buồn vì thiếu thầy cô, thiếu trường học. Bao bệnh nhân ở xa thành phố, cần đến thầy thuốc. Bao người nghèo khổ sống trong nỗi muộn phiền. Nếu chúng ta thực sự có niềm vui của Chúa, nếu chúng ta đã ra khỏi nỗi âu lo về mình, chắc chúng ta sẽ ra đi công bố Tin Mừng Phục Sinh, bằng việc đem lại nụ cười cho những người bất hạnh.
Chuyện Ðức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin. Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ thì người ta có thể gặp đươc Ðấng đang sống.

CẦU NGUYỆN:
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người, xin cho con nghe được lời mời của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn đi.”
Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ



Share:
Continue Reading →

Mời ông ở lại với chúng tôi – 04/04, Thứ Tư trong Tuần Bát nhật Phục sinh.


LỜI CHÚA: Lc 24, 13-35
Chiều ngày phục sinh, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Ðang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Ðức Giêsu tiến lại gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu. Một trong hai người tên là Clêôpát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” Ðức Giêsu hỏi: “Chuyện gì vậy?” Họ thưa: “Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Ðấng sẽ cứu chuộc Ítraen. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn còn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.”
Bấy giờ Ðức Giêsu nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Ðấng Kitô chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. Khi gần tới làng họ muốn đến, Ðức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”
Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon.” Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
Holy Gospel of Jesus Christ according to Saint Luke 24:13-35.
That very day, the first day of the week, two of Jesus' disciples were going to a village seven miles from Jerusalem called Emmaus, and they were conversing about all the things that had occurred. And it happened that while they were conversing and debating, Jesus himself drew near and walked with them, but their eyes were prevented from recognizing him. He asked them, "What are you discussing as you walk along?" They stopped, looking downcast. One of them, named Cleopas, said to him in reply, "Are you the only visitor to Jerusalem who does not know of the things that have taken place there in these days?" And he replied to them, "What sort of things?" They said to him, "The things that happened to Jesus the Nazarene, who was a prophet mighty in deed and word before God and all the people, how our chief priests and rulers both handed him over to a sentence of death and crucified him. But we were hoping that he would be the one to redeem Israel; and besides all this, it is now the third day since this took place. Some women from our group, however, have astounded us: they were at the tomb early in the morning and did not find his body; they came back and reported that they had indeed seen a vision of angels who announced that he was alive. Then some of those with us went to the tomb and found things just as the women had described, but him they did not see."
And he said to them, "Oh, how foolish you are! How slow of heart to believe all that the prophets spoke! Was it not necessary that the Messiah should suffer these things and enter into his glory?" Then beginning with Moses and all the prophets, he interpreted to them what referred to him in all the scriptures. As they approached the village to which they were going, he gave the impression that he was going on farther. But they urged him, "Stay with us, for it is nearly evening and the day is almost over." So he went in to stay with them. And it happened that, while he was with them at table, he took bread, said the blessing, broke it, and gave it to them. With that their eyes were opened and they recognized him, but he vanished from their sight. Then they said to each other, "Were not our hearts burning (within us) while he spoke to us on the way and opened the scriptures to us?"
So they set out at once and returned to Jerusalem where they found gathered together the eleven and those with them who were saying, "The Lord has truly been raised and has appeared to Simon!" Then the two recounted what had taken place on the way and how he was made known to them in the breaking of the bread.
Copyright © Confraternity of Christian Doctrine, USCCB.
"With that their eyes were opened"
The days that intervened between the Lord's resurrection and ascension have not passed by uneventfully, but great mysteries have been ratified in them, deep truths revealed in them. In them the fear of awful death was removed and the immortality, not only of the soul but also of the flesh, established...
It was during these day that the Lord joined two disciples as a companion along the way, and, to the sweeping away of all clouds of uncertainty, upbraided them with the slowness of their timorous hearts. Their enlightened hearts catch the flame of faith, and lukewarm as they have been, are made to burn while the Lord unfolds the Scriptures. In the breaking of the bread also their eyes are opened as they eat with him. How far more blessed is the opening of their eyes, to whom the glorification of their nature is revealed, than that of our first parents whose eyes were opened to the shame of their disobedience (Gen 3:7).
Amidst the course of these and other miracles and when the disciples were disturbed by bewildered thoughts, the Lord appeared in the midst of them and said: "Peace be with you" (Lk 24:36; Jn 20:26). And that they might not remain with the thoughts that were disturbing them... he held out before their eyes the marks of the cross that remained in his hands and feet... so that, not with wavering faith, but with the most steadfast knowledge they might comprehend that the nature which had been laid in the sepulcher was to sit on God the Father's throne. Accordingly, dearly-beloved, throughout the time which elapsed between the Lord's Resur­rection and Ascension, God's Providence had this in view: to teach and impress upon both the eyes and hearts of his own people that the Lord Jesus Christ could be acknowledged to have just as truly risen as he was truly born, suffered, and died.
Daily Gospel.
SUY NIỆM:
Dưới dáng dấp một người khách lạ, Chúa Giêsu phục sinh đến với hai môn đệ Emmau. Ngài đến đúng lúc, đúng lúc họ đang bỏ cuộc, quay quắt và ray rứt vì chuyện đã qua. Ngài đi cùng với họ, đi gần bên họ, khiêm tốn trở thành một người bạn đồng hành. Ngài gợi chuyện, hay đúng hơn, Ngài muốn tham dự vào câu chuyện dở dang của họ. Chúa Giêsu không nản lòng trước câu trả lời lạnh nhạt: “Chắc chỉ có ông mới không biết chuyện vừa xảy ra…” Ngài không cắt đứt cuộc đối thoại: “Chuyện gì vậy?” Ngài giả vờ không biết để họ nói cho vơi nỗi buồn. Chúa Giêsu kiên nhẫn lắng nghe lời họ tâm sự. “Trước đây, chúng tôi hy vọng rằng…” Như thế niềm hy vọng này chỉ còn là chuyện quá khứ. Cả niềm tin cũng trở nên chai lì, họ đâu có tin vào lời của các bà ra thăm mộ.
Khi lắng nghe, Chúa Giêsu nhận ra cái gút của vấn đề, những câu hỏi mà họ không tìm ra lời giải đáp. Tại sao một người của Chúa, người mà họ tin là Ðức Kitô lại bị đóng đinh như một kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ? Chúa Giêsu vén mở ý nghĩa của mầu nhiệm đau khổ. Ðau khổ là nhịp cầu mà Ðức Kitô phải vượt qua để sang bờ bên kia là vinh quang bất diệt. Ðau khổ không phải là chuyện xui xẻo, rủi ro, nhưng nó có chỗ đứng trong chương trình cứu độ. Lời của Chúa Giêsu là Tin Mừng ngọt ngào, khiến nỗi đau của họ dịu đi, lòng họ như ấm lại. Họ cố nài ép Ngài ở lại dùng bữa chiều. Và chính lúc Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho họ thì họ nhận ra vị khách lạ chính là Thầy Giêsu.
Kinh nghiệm của hai môn đệ Emmau cũng là của chúng ta. Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt, thì Ngài lại đang ở gần bên. Lúc ta nhận ra Ngài ở gần bên, thì Ngài lại biến mất rồi. Nhưng chính lúc Ngài biến mất, ta lại cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Ngài. Ngài đến lúc ta không ngờ. Ngài đi mà ta không giữ lại được. Ngài ở lại với ta cả khi ta không thấy Ngài nữa.
Ðấng Phục Sinh vẫn đến với ta hôm nay qua một người bạn hay một người lạ ta gặp tình cờ. Qua họ, Ngài thổi vào lòng ta niềm hy vọng tin yêu. Ngài vẫn đến với ta qua từng thánh lễ. Ngài đích thân giảng Tin Mừng và bẻ bánh trao cho ta. Sống như Chúa phục sinh là tập đến với tha nhân, tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập soi sáng… Hôm nay vẫn có nhiều người bạn đang lê gót về Emmau.

CẦU NGUYỆN:
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần có Chúa hiện diện để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào. Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn, cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm, chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ



Share:
Continue Reading →

Thứ Hai, 2 tháng 4, 2018

Thông điệp Phục Sinh Urbi et Orbi 2018



Lúc 10h15 sáng Chúa Nhật 1 tháng Tư, trước hàng trăm ngàn tín hữu đứng chật quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã cử hành thánh lễ Phục sinh. Tiếp theo đó là thông điệp Phục sinh Urbi et Orbi gởi dân thành Rôma và toàn thế giới cùng nghi thức ban phép lành kèm theo ơn toàn xá cho tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô cũng như những anh chị em tín hữu trên thế giới, theo dõi qua các đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông mới trong đó có mạng lưới điện toán toàn cầu miễn là họ tuân giữ các qui tắc và hội đủ các điều kiện luật định, nghĩa là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha và từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi.
Lúc 12h Đức Thánh Cha đã có mặt tại bao lơn chính của Đền Thờ Thánh Phêrô.
Ban nhạc của đội Hiến Binh Vatican và ban quân nhạc các quân binh chủng của Italia đang trình tấu quốc thiều.
Trong thông điệp Phục Sinh Urbi et Orbi gởi đến dân thành Rôma và toàn thế giới, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, Chúc mừng Phục sinh!
Chúa Giêsu đã sống lại từ trong kẻ chết!
Thông điệp này vang dội trong Giáo hội trên toàn thế giới, cùng với tiếng hát Alleluia: Chúa Giêsu là Chúa; Chúa Cha đã cho Người trỗi dậy và Người sống mãi giữa chúng ta.
Chúa Giêsu đã báo trước sự chết và sự sống lại của Người bằng hình ảnh hạt lúa mì. Người nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12:24). Và đây chính là điều đã xảy ra: Chúa Giêsu, hạt lúa mì được Thiên Chúa gieo vào những luống đất thế gian, đã chết, đã bị giết bởi tội lỗi của thế gian. Người nằm trong mộ hai ngày; nhưng cái chết của Người chứa đựng tột đỉnh tình yêu của Thiên Chúa, được bộc lộ vào ngày thứ ba, ngày chúng ta cử hành hôm nay: đó là Lễ Phục Sinh của Chúa Kitô.
Các Kitô hữu chúng ta tin tưởng và biết rằng sự sống lại của Đức Kitô là niềm hy vọng đích thực của thế giới, đó là hy vọng không làm ta thất vọng. Đó là sức mạnh của hạt lúa mì, sức mạnh của tình yêu tự hạ mình xuống và trao ban đến cùng, và do đó canh tân cách thực sự thế giới. Sức mạnh này vẫn tiếp tục sinh sôi nảy nở trong các luống đất lịch sử của chúng ta, một lịch sử được đánh dấu bởi quá nhiều những hành vi bất công và bạo lực. Nó đâm hoa kết trái hy vọng và phẩm giá nơi có sự tước đoạt và loại trừ, nơi có nghèo đói và mất công ăn việc làm, nơi có những người di cư và những người tị nạn (quá thường khi bị lãng quên bởi nền văn hoá lãng phí ngày nay), nơi có những nạn nhân của nạn buôn bán ma túy, buôn người và các hình thức nô lệ hiện đại.
Hôm nay chúng ta kêu cầu hoa trái hòa bình trên toàn thế giới, bắt đầu với đất nước Syria yêu dấu đã chịu đau khổ quá lâu, nơi người dân bị tàn phá bởi một cuộc chiến tranh dường như bất tận. Trong ngày lễ Chúa Sống Lại này, cầu xin ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh soi sáng lương tâm của tất cả các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự, để có thể kết thúc nhanh chóng cuộc tàn sát đang diễn ra, để luật nhân đạo có thể được tôn trọng; và các thỏa thuận có thể được đưa ra ngõ hầu viện trợ mà anh chị em của chúng ta đang rất cần có thể đến được với họ, đồng thời cũng bảo đảm các điều kiện phù hợp cho sự trở về cố hương của những người di tản.
Chúng ta cũng cầu xin hoa trái hòa giải cho Thánh Địa, nơi trong những ngày này cũng trải qua những vết thương do một cuộc xung đột không tha cho cả những người vô phương thế tự vệ vẫn đang tiếp diễn, cầu cho Yemen và cho toàn bộ vùng Trung Đông, để tinh thần đối thoại và sự tôn trọng lẫn nhau có thể chiếm ưu thế trên sự chia rẽ và bạo lực. Xin cho anh chị em của chúng ta trong Chúa Kitô, những người phải thường xuyên chịu đựng những bất công và bách hại, có thể là những chứng nhân rạng ngời cho Chúa Phục Sinh và cho chiến thắng của điều thiện trên sự ác.
Chúng ta cũng khẩn cầu hoa trái hy vọng cho những ai khao khát một cuộc sống xứng với phẩm giá hơn, nhất là ở những khu vực của lục địa châu Phi nơi đang bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nạn đói, và các cuộc xung đột cũng như nạn khủng bố đang lan tràn như một thứ dịch bệnh. Nguyện xin bình an của Chúa Phục Sinh chữa lành các vết thương ở Nam Sudan và mở rộng những con tim cho đối thoại và hiểu biết lẫn nhau. Chúng ta đừng quên những nạn nhân của cuộc xung đột này, đặc biệt là các trẻ em! Cầu xin cho đừng thiếu vắng tình đoàn kết với tất cả những ai buộc phải rời bỏ quê hương và thiếu những điều cần thiết cho cuộc sống.
Chúng ta cầu khẩn những hoa trái đối thoại cho bán đảo Triều Tiên, xin cho các cuộc thảo luận đang tiến hành có thể thăng tiến hòa hợp và hòa bình trong khu vực. Cầu xin cho những người có trách nhiệm trực tiếp biết hành động với sự khôn ngoan và biết phân định để mang lại thiện ích cho người Hàn Quốc và xây dựng những mối quan hệ tin tưởng trong cộng đồng quốc tế.
Chúng ta khẩn cầu những hoa trái hòa bình cho Ukraine, xin cho các bước được chọn, nhằm tăng cường sự hòa hợp, có thể được củng cố, và được tạo điều kiện bởi các sáng kiến nhân đạo mà người dân của quốc gia này đang rất cần.
Chúng ta cũng cầu xin hoa trái của sự ủi an đối với người dân Venezuela, là những người mà như các giám mục của họ đã viết, đang sống trong một “vùng đất xa lạ” ngay trong đất nước của chính mình. Cầu xin cho quốc gia này, nhờ quyền năng phục sinh của Chúa Giêsu, tìm ra được một phương cách bình an, hoà bình và nhân bản để nhanh chóng vượt qua được những cuộc khủng hoảng chính trị và nhân đạo. Cầu xin cho con dân của đất nước này, những người đang bị buộc phải rời bỏ đất nước mình được chào đón và hỗ trợ.
Nguyện xin Đức Kitô Phục Sinh mang lại hoa trái cuộc sống mới cho những trẻ em, là những đứa bé do hậu quả cuả chiến tranh và nghèo đói, đang lớn lên mà chẳng có chút hy vọng nào, thiếu giáo dục và những chăm sóc sức khoẻ; và cho những người cao niên đang bị bỏ rơi bởi một nền văn hóa ích kỷ loại trừ những ai không “có năng suất”.
Chúng ta cũng cầu khẩn hoa trái khôn ngoan cho những người có trách nhiệm chính trị trong thế giới của chúng ta, cầu xin cho họ luôn biết tôn trọng phẩm giá con người, cống hiến hết mình cho việc theo đuổi công ích và bảo đảm sự phát triển và an ninh cho công dân của mình.
Anh chị em thân mến,
Những lời được nghe bởi các phụ nữ ở ngôi mộ cũng được gửi đến chúng ta: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi.” (Lc 24: 5-6). Cái chết, cô đơn và sợ hãi không phải là những từ ngữ cuối cùng. Có một từ còn vượt lên trên những từ ấy, một từ mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể nói: đó là từ phục sinh (xem Gioan Phaolô II, Kết thúc Đàng Thánh giá tại Côlôsêô, ngày 18 tháng 4 năm 2003). Bởi vì quyền năng của tình yêu Thiên Chúa “xua đuổi hết tội khiên, tẩy sạch vết nhơ, người có tội được sạch trong, kẻ ưu phiền được sướng vui hân hoan; phá tan hận thù oán ghét, mang lại hòa thuận, yêu thương khuất phục mọi quyền bính thế gian” (Bài Vinh Tụng Ca công bố Tin Mừng Phục sinh)
Chúc mừng Phục sinh cho tất cả anh chị em!
Tiếp theo đó là nghi thức ban phép lành URBI ET ORBI cho Roma và toàn thế giới, kèm theo ơn toàn xá cho tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô cũng như những anh chị em tín hữu trên thế giới, theo dõi qua các đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông mới.
Mở đầu nghi thức, Đức Hồng Y trưởng đẳng phó tế, tuyên bố chủ ý của Đức Thánh Cha ban ơn toàn xá cho những người nói trên, miễn là họ giữ các qui tắc và hội đủ các điều kiện luật định, nghĩa là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha và từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi.
Xin quý vị và anh chị em hiệp ý để đón nhận ơn Toàn Xá.
Đức Thánh Cha long trọng đọc lời nguyện xin Thiên Chúa nhân lành, vì lời cầu bầu của Mẹ Maria, của các thánh tông đồ Phêrô, Phaolô và toàn thể các thánh, mà xá giải mọi tội lỗi và hình phạt bởi tội lỗi cho các tín hữu.
Ngài đọc như sau:
Xin các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô là những vị mà chúng tôi dựa vào quyền bính và uy thế, cầu khẩn cho chúng ta trước Thiên Chúa. Amen.
Nhờ lời cầu bầu và công nghiệp của Đức Trinh nữ Maria, của Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, của thánh Gioan Baotixita, của các thánh Tông Đồ Phêrô, Phaolô cùng toàn thể các thánh, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót anh chị em và xin Chúa Kitô tha tội cho anh chị em cùng dẫn đưa anh chị em về cõi trường sinh. Amen.
Xin Thiên Chúa toàn năng lân tuất ban ân xá, tha thứ tất cả tội lỗi của anh chị em, cho anh chị em được hưởng thời gian để làm việc đền tội thành tâm và có công hiệu, một tấm lòng thống hối và hoán cải đời sống, được ơn thánh và sự an ủi của Chúa Thánh Thần, cùng được sự kiên trì làm việc thiện cho đến cùng. Amen.
Sau khi ban phép lành toàn xá cho các tín hữu, Đức Thánh Cha một lần nữa chúc mừng Phục sinh các tín hữu đến từ các nơi trên nước Ý và từ các quốc gia khác, cũng như những người đang theo dõi diễn biến này qua các đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông khác.
Đức Thánh Cha cầu xin niềm vui và hy vọng của Chúa Giêsu Kitô phục sinh mang lại sức mạnh cho những người cao niên là ký ức quý giá của xã hội, và cho các bạn trẻ là tương lai của Giáo hội và nhân loại.
Đức Thánh Cha cũng cám ơn các tín hữu đã hiện diện trong ngày lễ Phục sinh – ngày lễ quan trọng nhất trong Phụng Vụ Kitô giáo, bởi vì đây là ngày cử mừng ơn cứu độ của chúng ta, ngày lễ của tình yêu Chúa dành cho chúng ta.
Đức Thánh Cha cám ơn về món quà là các bông hoa được mang đến từ Hòa lan để trang trí cho quảng trường thánh Phêrô. Và cuối cùng, Đức Thánh Cha nhắc nhở các tín hữu hãy loan báo, bằng lời nói và đời sống của mình tin vui “Chúa Giêsu Phục sinh”
Nguồn: VietCatholic News

Share:
Continue Reading →

Tôi đã thấy Chúa – 03/04, Thứ Ba trong Tuần Bát nhật Phục sinh.


LỜI CHÚA: Ga 20, 11-18
Khi ấy, bà Maria Mácđala đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!” Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Maria tưởng là người làm vườn, liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” Đức Giêsu gọi bà: “Maria!” Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: “Rápbuni!” (nghĩa là “Lạy Thầy”). Đức Giêsu bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.”. Bà Maria Mácđala đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.

SUY NIỆM:
Maria Mácđala là con người yêu mến. Theo Tin Mừng Gioan, bà đã theo Thầy Giêsu đến tận Đồi Sọ, đã đứng gần thập giá và chứng kiến cái chết của Thầy (Ga 19, 25). Hầu chắc bà đã tham dự cuộc mai táng Thầy và biết vị trí của ngôi mộ. Hơn nữa, bà là nguời ra mộ sớm nhất vào ngày thứ nhất trong tuần. Rồi bà chạy về báo tin cho các môn đệ về chuyện xác Thầy không còn đó (20, 1-2). Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy bà lại có mặt ở ngoài mộ lần nữa (c. 11). Ngôi mộ như có sức giữ chân bà. Chỉ tình yêu mới giải thích được điều đó.
Maria là con người tìm kiếm. Đấng phục sinh hỏi bà: “Bà tìm ai?” (c. 15). Bà chỉ có một mối quan tâm duy nhất, đó là tìm lại được xác Chúa của bà. Bà đã nói với Phêrô: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu!” (20, 2). Bà đã nói với vị thiên thần ngồi trong mộ điệp khúc tương tự: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!” (c. 13). Khi gặp Thầy Giêsu, bà tưởng là người làm vườn, nên cũng nói: “Nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về (c. 15). Đối với Maria, mất xác Thầy là mất chính Thầy, nên bà cứ bị ám ảnh bởi chuyện người ta để Người ở đâu.
Maria là con người đau khổ. Bà đã khóc nhiều từ khi xác Thầy không còn đó. Cả thiên thần và Đức Giêsu đều hỏi bà cùng một câu hỏi: “Tại sao bà khóc?” Ai sẽ là người lau khô nước mắt của bà Maria Macđala? Ai sẽ là người giúp bà tìm thấy điều bà tìm kiếm?
Đức Giêsu phục sinh đến gặp bà dưới dạng một người làm vườn. Thậm chí bà nghi ngờ ông này có dính dáng đến chuyện mất xác Thầy. “Maria”: Đức Giêsu gọi tên bà với một cung giọng quen thuộc. Bây giờ bà mới nhận ra Thầy và reo lên: “Rabbouni !” Có những lời của Đức Giêsu được thực hiện. “Ai tìm thì sẽ thấy”, “Ai khóc lóc sẽ được vui cười”. Maria đi tìm xác Thầy, nhưng bà đã gặp được một điều quý hơn nhiều, đó là chính Thầy đang sống. Maria đã khóc lóc, nhưng niềm vui bà gặp được lớn hơn nhiều. Chẳng có giọt nước mắt nào là vô ích trước mặt Thiên Chúa.
Hãy nếm niềm vui bất ngờ của Maria. Bà được Chúa sai đến với các môn đệ, cũng là anh em của Ngài. Bà gói ghém kinh nghiệm bà mới trải qua trong một câu đơn giản: “Tôi đã thấy Chúa!” và Chúa đã nói với tôi (c. 18). Chúng ta không thể nào làm chứng cho Chúa Giêsu nếu không có kinh nghiệm này. Thấy Chúa và nghe được Chúa nói: đó là ước mơ của chúng ta trong cầu nguyện. Nhưng đừng quên Maria đã yêu cách nồng nhiệt và can đảm và đã đau khổ tìm kiếm Thầy Giêsu.

CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ



Share:
Continue Reading →

Chủ Nhật, 1 tháng 4, 2018

“Chào chị em!” – 02/04, Thứ Hai trong Tuần Bát nhật Phục sinh.


Khi ấy, các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay. Bỗng Đức Giêsu đón gặp các bà và nói: “Chào chị em!” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Bấy giờ, Đức Giêsu nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.” Các bà đang đi, thì có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo: “Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự.” Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do thái cho đến ngày nay.
Holy Gospel of Jesus Christ according to Saint Matthew 28:8-15.
Mary Magdalene and the other Mary went away quickly from the tomb, fearful yet overjoyed, and ran to announce the news to his disciples. And behold, Jesus met them on their way and greeted them. They approached, embraced his feet, and did him homage. Then Jesus said to them, "Do not be afraid. Go tell my brothers to go to Galilee, and there they will see me." While they were going, some of the guard went into the city and told the chief priests all that had happened. They assembled with the elders and took counsel; then they gave a large sum of money to the soldiers, telling them, "You are to say, 'His disciples came by night and stole him while we were asleep.' And if this gets to the ears of the governor, we will satisfy (him) and keep you out of trouble." The soldiers took the money and did as they were instructed. And this story has circulated among the Jews to the present (day).
Copyright © Confraternity of Christian Doctrine, USCCB.
"Behold, Jesus met them on their way "
Many believe in Christ’s resurrection but few see it clearly. How is it, then, that those who have not seen him are able to adore Christ Jesus as the Holy One, the Lord? As it is written: “No one can say, ‘Jesus is Lord,’ except by the Holy Spirit” (1Cor 12:3), and again: “God is Spirit, and those who worship him must worship in Spirit and truth” (Jn 4:24). How is it, then, that the Holy Spirit presses us to say today [in the liturgy]: “We have seen the resurrection of Christ. Let us adore the Holy one, the Lord Jesus, who alone is without sin”? How is it that it invites us to claim him as though we had seen him? Christ was raised once and for all a thousand years ago, and even then no one saw him rise. Does Holy Scripture mean us to lie?
Not on your life! To the contrary, it exhorts us to bear witness to the truth, that truth which reproduces Christ’s resurrection in each one of us, his faithful people, not just once but when, so to speak, the Master in person, Christ, rises within us, clothed in white and shining with the lightning flashes of incorruptibility and divinity. For the luminous coming of the Spirit makes us catch a glimpse, as in his morning, of the Master’s resurrection. Or rather, it grants us the favor of seeing him in person, he, the risen one. That is why we sing: “The Lord is God and has appeared to us” (cf. Ps 118[117]:27) and, alluding to his second coming, we add: “Blessed is he who comes in the name of the Lord” (v.26)… It is thus spiritually, for their spiritual perception, that he shows himself and lets himself be seen. And when that is brought about in us by the Holy Spirit, he raises us from the dead, he brings us to life and grants that we may see him wholly, living within us, he, the immortal and imperishable one. He grants us the grace of knowing him clearly, he who raises us up with him and makes us enter with him into his glory.

Daily Gospel.
SUY NIỆM:
Trong bốn sách Tin Mừng, các phụ nữ luôn được kể là người ra viếng mộ trước tiên. Trong Tin Mừng Mátthêu, đó là hai bà có cùng tên Maria. Sau khi được thiên thần giao nhiệm vụ loan báo gấp cho các môn đệ về sự phục sinh và cuộc hẹn gặp của Thầy ở Galilê (28, 7), các bà đã mau mắn lên đường, vội vã rời bỏ ngôi mộ trống. Ngôi mộ này là nơi các bà đặt tình cảm thân thương, vì đây là nơi đặt xác của người Thầy yêu dấu Bây giờ ngôi mộ không còn xác Thầy nữa, Thầy đã được trỗi dậy rồi, nên ngôi mộ chẳng phải là nơi các bà dừng lại mà khóc lóc than van. Nó trở nên một bằng chứng về sự sống lại của Thầỵ Ngôi mộ trống thực sự đã đem lại một niềm vui vô bờ bến. Chính những mất mát lại là dấu hiệu cho một sự hiện diện viên mãn hơn. Vì thế vừa sợ hãi lại vừa hết sức vui mừng, các bà chạy đi loan báo cho các môn đệ điều mình vừa nghe nói.
Trên con đường hối hả đi gặp các môn đệ, các bà không ngờ mình lại là người đầu tiên được gặp Chúa phục sinh. Điều mới nghe thiên thần nói, bây giờ được thấy tận mắt. Thánh Mátthêu chỉ nói một cách đơn sơ: “Đức Giêsu gặp các bà” (c. 9). Không thấy mô tả Đức Giêsu oai phong rực rỡ như thế nào. Có vẻ Ngài gặp các bà lần này như Ngài đã từng gặp bao lần trong quá khứ. Các bà nhận ra ngay vị Thầy được sống lại cũng là vị Thầy chịu đóng đinh mà mình đã đi theo từ Galilê. Chính Đức Giêsu ngỏ lời chào trước: “Chị em hãy vui lên.” Lời chào này cũng là lời chào bình thường hằng ngày vào thời đó. Vì thế các bà đã bạo dạn tiến lại gần, ôm chân và bái lạy Thầỵ Như vậy các bà có thẻ thấy được và đụng chạm được Đấng phục sinh. Các bà còn có thể nghe được lời dặn dò của Ngài. Lời này giống lời thiên thần, chỉ có điều Ngài gọi các môn đệ là anh em: “Hãy đi và báo cho anh em của Thầy…” (c. 10). Các môn đệ vẫn được gọi là anh em ngay cả khi họ đã bỏ rơi Ngài. Khi gọi họ là anh em, Đức Giêsu đã muốn tha thứ mọi vấp ngã của họ.
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho các phụ nữ trước tiên. Nhìn thấy ngôi mộ trống chưa đủ, còn cần gặp chính Đấng phục sinh. Khi trở về gặp các môn đệ, các bà sẽ là những người làm chứng tuyệt vời. Không chỉ là ngôi mộ trống với lời chứng của thiên thần, mà còn là lời chứng của chính họ, của người đã chứng kiến tận mắt và đụng chạm. Đức Giêsu phục sinh dám nhờ các phụ nữ làm chứng, dám nhờ các phụ nữ đi loan Tin Mừng cho các môn đệ của mình, dù thời của Ngài người ta không tin lời chứng của phụ nữ. Chúng ta không quên những đóng góp của các phụ nữ cho Giáo Hội từ thời đầu. Mong vai trò ấy vẫn được đề cao và tôn trọng.

CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ



Share:
Continue Reading →