Ðấng Cứu Thế Ðang Có Mặt
Ngày kia, có một đan viện phụ Công
giáo tìm đến một vị tu sĩ Ấn Giáo tại chân núi Himalaya. Với tất cả ưu tư phiền
muộn, vị đan viện phụ trình bày về tình trạng bi đát của tu viện do ông điều
khiển. Trước kia, tu viện này là một trong những trung tâm Công giáo thu hút
không biết bao nhiêu khách hành hương. Nhà nguyện lúc nào cũng vang lên tiếng
ca hát của các tu sĩ và giáo dân đến từ khắp nơi. Các căn phòng lúc nào cũng có
người ở... Nay tu viện gần như trở thành một ngôi chùa trống vắng. Làn sóng những
người trẻ tìm đến tu viện hầu như tắt lịm. Nhà nguyện vắng kẻ ra người vào. Một
số nhỏ tu sĩ còn lại sống trong uể oải buông thả... Vị viện phụ muốn hỏi nhà tu
sĩ Ấn Giáo: đâu là nguyên nhân đã đưa đến tình trạng này? Phải chăng vì một tội
lỗi tày đình nào đó mà bàn tay Chúa đã đè nặng trên cộng đoàn?
Sau khi nghe đức viện phụ kể lể, vị
tu sĩ Ấn Giáo mới ôn tồn nói: "Cái tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn:
đó là tội vô tình". Vị tu sĩ Ấn Giáo mới giải thích như sau: "Ðấng Cứu
Thế đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận
ra Ngài".
Nhận được lời giải thích của vị tu
sĩ Ấn Giáo, đức viện phụ mới hối hả trở về tu viện, trong lòng ông không khỏi
miên man đặt câu hỏi: "Ai là người được Ðấng Cứu Thế đang mượn hình dáng để
trở lại với loài người?". Cả tu viện chỉ có tất cả không đầy mười người. Ðấng
Cứu Thế không thể là chính ông, vì ông tự biết mình là một con người tội lỗi yếu
hèn. Nhưng ông cũng biết rõ các tu sĩ khác trong tu viện: có người nào toàn vẹn
để Ðấng Cứu Thế mượn lấy hình dáng? Thế nhưng, ông vẫn tin theo lời của vị tu
sĩ Ấn Giáo để xác quyết rằng Ðấng Cứu Thế đang cải trang thành một người nào đó
trong cộng đoàn...
Với niềm xác tín ấy, ông quy tụ tất
cả các tu sĩ lại và loan báo cho mọi người biết rằng Ðấng Cứu Thế đang cải
trang thành một người trong nhà. Ðôi mắt của mỗi người mở to ra và ai cũng bắt
đầu dò xét từng người trong nhà. Chỉ có điều chắc chắn là: bởi vì Ðấng Cứu Thế
đã cải trang, cho nên, không ai có thể nhận ra Ngài được. Thành ra mỗi người
trong nhà đều có thể là Ðấng Cứu Thế... Từ đó, ai ai cũng đối xử với nhau như đối
xử với chính Ðấng Cứu Thế. Không mấy chốc, bầu khí yêu thương, huynh đệ, sức sống
và niềm vui đã trở lại với tu viện. Sự thánh thiện ấy không mấy chốc được đồn
thổi đi khắp nơi. Các tín hữu từ khắp nơi trở lại tu viện để tĩnh tâm và cầu
nguyện. Nhiều ngưởi trẻ cũng đến gõ cửa Nhà Dòng...
Nếu người người, ai ai cũng nhìn
nhau và đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa Giêsu, thì có lẽ hận thù, chiến
tranh sẽ không bao giờ có lý do để tồn tại trên mặt đất này. Sự vắng bóng của
Thiên Chúa trong xã hội, hay đúng hơn sự vô tình của con người để không nhận ra
Thiên Chúa trong cuộc sống: đó là đầu mối của mọi thứ bất hòa, chiến tranh, xáo
trộn trong xã hội.
Chối bỏ Thiên Chúa cũng có nghĩa là
chối bỏ con người. Sự băng hoại của những xã hội xây dựng trên chủ thuyết vô thần
là một bằng chứng hùng hồn về hậu quả của sự chối bỏ Thiên Chúa. Khi con người
chối bỏ Thiên Chúa, con người cũng chà đạp con người...
Con người là hình ảnh cao quý của
Thiên Chúa đến độ Ngài đã trở thành con người và tự đồng hóa với con người. Từ
nay, con người chỉ có thể nhận ra Ngài trong mỗi người anh em của mình mà thôi.
Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch: mỗi một
con người đều là hình ảnh của Thiên Chúa và chỉ có xuyên qua tình yêu đối với
con người, con người mới có thể đến với Thiên Chúa...
Trích Lẽ sống
Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống.
Thiên Chúa dựng nên ta để sống, không những sống trong cuộc đời hiện tại, mà
còn để sống mãi mãi sau khi sống lại.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô. (Mc 12, 18-27)
Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến
cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng:
"Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết
đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng
dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không
con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba
cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết.
Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người
nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ". Chúa Giêsu trả lời rằng:
"Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của
Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì
không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ
chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời
Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa
Giacóp". Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống.
Vậy các ông thật lầm lạc".
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa dựng nên chúng con và ban cho chúng con sự sống dồi dào ân sủng Chúa, Chúa muốn chúng con được hạnh phúc cả đời này và đời sau. Nhưng nhiều lúc, chúng con có vẻ như lại muốn tìm đến với cái chết bằng chính lối sống hủy hoại chính mình qua việc ăn uống vô độ, vui chơi quá đà, phung phí sức khỏe, chạy theo danh vọng. Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và đã sống lại để cho nhân loại chúng con được sống đời đời với Chúa. Xin giúp chúng con luôn biết ngắm nhìn thập giá Chúa mỗi ngày để chúng con biết sửa đổi những thói hư tật xấu, biết từ bỏ những dịp tội làm chúng con xa cách Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con. Amen.
Alleluia - Handel
0 nhận xét:
Đăng nhận xét