"Lạy Chúa, con yêu mến Chúa
quá trễ: Ôi vẻ đẹp của ngàn xưa nhưng muôn thuở vẫn còn tươi mát, trẻ trung.
Con yêu mến Chúa quá trễ: Chúa ở
bên trong tâm hồn, còn con, con sống hời hợt bên ngoài và chỉ chú tâm tìm kiếm
Chúa ở đó.
Chúa hiện diện ở trong con nhưng
con không sống ở trong Chúa. Nhiều tạo vật đã kềm hãm khiến con sống xa Chúa.
Chúa đã gọi tên con, Chúa đã lớn tiếng
kêu gọi con, Chúa đã đâm thủng đôi tai giả điếc làm ngơ của con.
Chúa đã tỏa ánh sáng chiếu soi và
đã phá tan màn đêm tối dày đặc nơi con.
Chúa thở ra hơi thơm ngào ngạt, con
hít vào và con khao khát Chúa. Chúa đã chạm đến con và con luôn cảm thấy nung nấu
được hưởng sự bình an của Chúa".
Trên đây là một đoạn trong quyển
"Tự Thú" của thánh Augustinô. Sau khi ăn năn trở lại, ngài đã nhận
lãnh Phép Rửa vào năm 33 tuổi, chỉ sau đó 3 năm ngài được phong chức linh mục,
5 năm sau đó được đề cử làm giám mục thành Hippone.
Duyệt qua cuộc sống của thánh
Augustinô, chúng ta có thể nói: Ngài là một tội nhân đã trở thành thánh nhân nhờ
được Thiên Chúa đến gõ cửa lòng bằng câu nói mạnh mẽ của thánh Phaolô: "Ðừng
sống theo dục tình và lạc thú dâm ô, nhưng hãy mặc lấy Ðức Giêsu Kitô".
Và kể từ đó, có thể nói được là
Tình Yêu Thiên Chúa không bao giờ buông tha ngài, trái lại tạo trong tâm hồn
ngài một sự khắc khoải và khao khát để đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của
Thiên Chúa.
Ngoài lời mời gọi và thôi thúc của
Tình Yêu Thiên Chúa, quãng đầu cuộc đời của Augustinô, một tội nhân trở thành
thánh nhân, có lẽ được vẽ lại bằng những nét chấm phá và những bàn tay cộng tác
với ơn Chúa trong việc hoán cải như sau:
Trước tiên, cường độ của sức sống
nơi ngài trên con đường thụt lùi xa lìa Thiên Chúa cũng như cường độ mãnh liệt
hơn của sức sống ấy trên con đường tiến về Thiên Chúa.
Tiếp đến, những dòng nước mắt sầu
đau và những kinh nguyện thành tâm của mẹ ngài, bà thánh Mônica dâng lên Thiên
Chúa trong kiên tâm, bền chí ròng rã bao năm trời.
Và sau cùng là sự hướng dẫn tận
tình của thánh Giám Mục Ambrôsiô.
Tất cả những yếu tố trên cộng lại
đã giúp chuyển tình yêu cuộc sống thành một cuộc sống cho và vì Tình Yêu, như
thánh nhân đã tự thú trong đoạn sách được trích dẫn ở trên: "Lạy Chúa, con
yêu mến Chúa quá trễ, ôi vẻ đẹp của ngàn xưa, nhưng muôn thuở vẫn còn tươi mát,
trẻ trung".
Trích Lẽ sống.
Chúa Giêsu đã liên kết luật
mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất. Ngài kêu mời ta thực hành luật
yêu thương ấy như một dấu hiệu đặc biệt của người con Thiên Chúa.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô. (Mc 12, 28b-34)
Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ
tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng
nhất?" Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi
Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy
yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức
ngươi". Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như
chính mình ngươi". Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó".
Luật sĩ thưa Người: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên
Chúa là Chúa duy nhất, và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác. Yêu mến Chúa hết
lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ
vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh". Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan,
Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và
không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giê-su xin dạy con yêu Chúa và yêu mọi người. Amen.
Ngày kia, có một đan viện phụ Công
giáo tìm đến một vị tu sĩ Ấn Giáo tại chân núi Himalaya. Với tất cả ưu tư phiền
muộn, vị đan viện phụ trình bày về tình trạng bi đát của tu viện do ông điều
khiển. Trước kia, tu viện này là một trong những trung tâm Công giáo thu hút
không biết bao nhiêu khách hành hương. Nhà nguyện lúc nào cũng vang lên tiếng
ca hát của các tu sĩ và giáo dân đến từ khắp nơi. Các căn phòng lúc nào cũng có
người ở... Nay tu viện gần như trở thành một ngôi chùa trống vắng. Làn sóng những
người trẻ tìm đến tu viện hầu như tắt lịm. Nhà nguyện vắng kẻ ra người vào. Một
số nhỏ tu sĩ còn lại sống trong uể oải buông thả... Vị viện phụ muốn hỏi nhà tu
sĩ Ấn Giáo: đâu là nguyên nhân đã đưa đến tình trạng này? Phải chăng vì một tội
lỗi tày đình nào đó mà bàn tay Chúa đã đè nặng trên cộng đoàn?
Sau khi nghe đức viện phụ kể lể, vị
tu sĩ Ấn Giáo mới ôn tồn nói: "Cái tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn:
đó là tội vô tình". Vị tu sĩ Ấn Giáo mới giải thích như sau: "Ðấng Cứu
Thế đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận
ra Ngài".
Nhận được lời giải thích của vị tu
sĩ Ấn Giáo, đức viện phụ mới hối hả trở về tu viện, trong lòng ông không khỏi
miên man đặt câu hỏi: "Ai là người được Ðấng Cứu Thế đang mượn hình dáng để
trở lại với loài người?". Cả tu viện chỉ có tất cả không đầy mười người. Ðấng
Cứu Thế không thể là chính ông, vì ông tự biết mình là một con người tội lỗi yếu
hèn. Nhưng ông cũng biết rõ các tu sĩ khác trong tu viện: có người nào toàn vẹn
để Ðấng Cứu Thế mượn lấy hình dáng? Thế nhưng, ông vẫn tin theo lời của vị tu
sĩ Ấn Giáo để xác quyết rằng Ðấng Cứu Thế đang cải trang thành một người nào đó
trong cộng đoàn...
Với niềm xác tín ấy, ông quy tụ tất
cả các tu sĩ lại và loan báo cho mọi người biết rằng Ðấng Cứu Thế đang cải
trang thành một người trong nhà. Ðôi mắt của mỗi người mở to ra và ai cũng bắt
đầu dò xét từng người trong nhà. Chỉ có điều chắc chắn là: bởi vì Ðấng Cứu Thế
đã cải trang, cho nên, không ai có thể nhận ra Ngài được. Thành ra mỗi người
trong nhà đều có thể là Ðấng Cứu Thế... Từ đó, ai ai cũng đối xử với nhau như đối
xử với chính Ðấng Cứu Thế. Không mấy chốc, bầu khí yêu thương, huynh đệ, sức sống
và niềm vui đã trở lại với tu viện. Sự thánh thiện ấy không mấy chốc được đồn
thổi đi khắp nơi. Các tín hữu từ khắp nơi trở lại tu viện để tĩnh tâm và cầu
nguyện. Nhiều ngưởi trẻ cũng đến gõ cửa Nhà Dòng...
Nếu người người, ai ai cũng nhìn
nhau và đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa Giêsu, thì có lẽ hận thù, chiến
tranh sẽ không bao giờ có lý do để tồn tại trên mặt đất này. Sự vắng bóng của
Thiên Chúa trong xã hội, hay đúng hơn sự vô tình của con người để không nhận ra
Thiên Chúa trong cuộc sống: đó là đầu mối của mọi thứ bất hòa, chiến tranh, xáo
trộn trong xã hội.
Chối bỏ Thiên Chúa cũng có nghĩa là
chối bỏ con người. Sự băng hoại của những xã hội xây dựng trên chủ thuyết vô thần
là một bằng chứng hùng hồn về hậu quả của sự chối bỏ Thiên Chúa. Khi con người
chối bỏ Thiên Chúa, con người cũng chà đạp con người...
Con người là hình ảnh cao quý của
Thiên Chúa đến độ Ngài đã trở thành con người và tự đồng hóa với con người. Từ
nay, con người chỉ có thể nhận ra Ngài trong mỗi người anh em của mình mà thôi.
Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch: mỗi một
con người đều là hình ảnh của Thiên Chúa và chỉ có xuyên qua tình yêu đối với
con người, con người mới có thể đến với Thiên Chúa...
Trích Lẽ sống
Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống.
Thiên Chúa dựng nên ta để sống, không những sống trong cuộc đời hiện tại, mà
còn để sống mãi mãi sau khi sống lại.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô. (Mc 12, 18-27)
Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến
cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng:
"Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em chết
đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để gây dòng
dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết không
con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ ba
cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết.
Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người
nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ". Chúa Giêsu trả lời rằng:
"Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của
Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì
không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ
chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời
Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa
Giacóp". Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống.
Vậy các ông thật lầm lạc".
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa dựng nên chúng con và ban cho chúng con sự sống dồi dào ân sủng Chúa, Chúa muốn chúng con được hạnh phúc cả đời này và đời sau. Nhưng nhiều lúc, chúng con có vẻ như lại muốn tìm đến với cái chết bằng chính lối sống hủy hoại chính mình qua việc ăn uống vô độ, vui chơi quá đà, phung phí sức khỏe, chạy theo danh vọng. Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và đã sống lại để cho nhân loại chúng con được sống đời đời với Chúa. Xin giúp chúng con luôn biết ngắm nhìn thập giá Chúa mỗi ngày để chúng con biết sửa đổi những thói hư tật xấu, biết từ bỏ những dịp tội làm chúng con xa cách Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con. Amen.
Trong cuộc
sống hôn nhân, vợ chồng với nhau cần có sự quan tâm, sẻ chia không chỉ trong
công việc hàng ngày mà cả việc nuôi dạy con cái.
Nhiều ông
chồng thường đẩy trách nhiệm nuôi dạy con cho người phụ nữ, coi đó là bổn phận
của người phụ nữ và để họ đảm đương hết mọi chuyện. Tuy nhiên cũng có rất nhiều
ông chồng sẵn sàng đứng ra phụ giúp vợ việc nhà, san sẻ phần nào những gánh nặng,
nhọc nhằn trên đôi vai của vợ.
Câu chuyện
được chia sẻ lại như sau:
“Hôm nay em
gặp một chuyện có lẽ nhiều người đọc xong sẽ bảo ‘trời nhạt toẹt có gì đâu’
nhưng đôi khi lại ẩn chứa nhiều ý nghĩa .
Em thấy cặp
vợ chồng này bước vào quán ăn với đứa con trai, anh ý mới đầu gọi hai bát bún
mang ra.
Như bình
thường thì sẽ là vợ nhường chồng ăn trước và đút cho con ăn, đằng này anh bế đứa
bé, tự tay thổi, đút cho con ăn từng thìa, trông khéo lắm, để cho vợ mình ngồi
ăn trước. Thằng bé có uốn khóc anh cũng nhẹ nhàng dỗ dành con chứ không nóng nảy.
Đút cho con ăn xong mới gọi bún cho mình.
Chú bán bún
thấy cũng bảo: ‘Nhìn tướng tá cậu thế mà cho con ăn cũng khéo nhỉ? Tôi chịu,
chuyện này để vợ nó lo cho thôi’.
Anh ấy chỉ
đơn giản bảo: ‘Vợ em đi làm cả ngày rồi bác à! Cho vợ ăn trước cho đỡ đói, chứ
em con trai ăn sau quan trọng gì. Cho con ăn cũng không khó khăn gì mà anh’.
Mình nghe
xong cũng bảo chứ, đúng là trong tình cảm vợ chồng, người chồng nào mà biết san
sẻ gánh nặng với vợ, lo cho vợ con thì tự nhiên gia đình sẽ êm ấm.
Trụ cột gia
đình phải vững thì nhà nó mới bền với thời gian được, gia đình mới hạnh phúc,
khi cả hai cùng san sẻ đồng hành với nhau.
Thiết nghĩ
vợ chồng giúp nhau đôi ba việc có gì là khó, ăn ở với nhau cả đời chứ có phải
vài ngày đâu. Tội gì không cùng nhau mà xây dựng tổ ấm, lợi mình cả có thiệt tí
nào đâu.
Chỉ mong số
mình sau này lấy chồng cũng kiếm được anh chồng biết san sẻ cho vợ, hiểu được
nghĩa vụ vợ chồng thì may mắn biết bao”.
Câu chuyện
giản dị này sau khi xuất hiện trên mạng xã hội, rất nhiều người đã bày tỏ sự
quan tâm và chia sẻ. Hành động của người chồng trong câu chuyện này rất nhỏ, rất
đơn giản nhưng rõ ràng nó đã cho thấy sự cảm thông sâu sắc của anh, có lẽ anh
cũng đã cảm nhận được nỗi vất vả của người vợ nên muốn gánh vác một phần nào.
Đây là một
câu chuyện quá đỗi bình thường trong cuộc sống mà ai cũng có thể bắt gặp hàng
ngày, nó cũng mang đến một thông điệp sâu sắc cho những ai đang yêu nhau, hay
đã có cuộc sống gia đình, rằng mỗi người hãy biết nhường nhịn, biết san sẻ và
gánh vác một phần trách nhiệm về mình, thì những mối quan hệ đó sẽ được duy trì
một cách hạnh phúc, bền vững.
Tuệ Tâm
Nguồn:
Facebook
Sống giữa đời, người tín hữu trước tiên phải chu toàn bổn phận nơi gia đình và môi trường, nơi sinh sống và làm việc. Còn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa thuộc bình diện khác và có tính tuyệt đối.
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. (Mc 12, 13-17)
Khi ấy, người
ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu
bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi
biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng
dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho
Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?" Nhưng Người biết họ giả
hình, nên bảo rằng: "Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền".
Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: "Hình và ký hiệu này là của
ai?" Họ thưa: "Của Cêsarê". Người liền bảo họ: "Vậy thì của
Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa". Và họ
rất đỗi kinh ngạc về Người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con biết rằng: trước khi là người Công giáo, con đã là người Việt Nam. Điều này nhắc nhở con ý thức về trách nhiệm với quê hương, với cuộc sống trần thế nơi con được tạo thành. Giữa một đất nước còn nhiều khó khăn, nhất là khi cái xấu, cái ác vẫn còn đầy dẫy trong xã hội, xin giúp con biết đem Tin Mừng vào giữa lòng dân tộc bằng đời sống chứng nhân cho Chúa. Nhưng trên hết mọi sự, xin giúp con luôn biết chu toàn bổn phận là người con Chúa bằng đời sống chuyên cần cầu nguyện, bác ái với tha nhân và năng lãnh nhận Thánh Thể Chúa như nguồn sinh lực giúp con chu toàn bổn phận của mình. Amen.
Ngày 30 Tháng Giêng năm 1948,
Mahatma Gandhi, người cha già của dân tộc Ấn Ðộ đã vĩnh viễn ngã gục sau mấy
nhát gươm của một thanh niên Ấn Giáo quá khích.
Hôm đó, như thường lệ, Gandhi được
hai người cháu dìu đi cầu nguyện. Cả một đám đông đang đi theo đằng sau Ngài. Bỗng
nhiên, một thanh niên từ trong đám đông sấn tới đâm bổ vào Người của vị cha già
dân tộc. Ba nhát gươm đâm xới xả vào một thân thể khô gầy vì không biết bao
nhiêu hy sinh cho đất nước.
Thinh lặng bao chùm lấy đám đông.
Người ta chỉ còn nghe được hai tiếng từ miệng của vị thánh "Rama,
Rama" nghĩa là "Chúa ơi, Chúa ơi". Với một cố gắng cuối cùng,
Ngài giơ hai tay lên, đan lại trong một cử chỉ cầu nguyện và tha thứ, rồi ngã gục.
Người thanh niên Ấn Giáo quá khích
đã sát hại Gandhi vì anh không thể chấp nhận được sự kiện Gandhi bày tỏ lòng quảng
đại yêu thương ngay cả với những người Hồi Giáo.
400 triệu người Ấn Ðộ đã than khóc
và để tang vị cha già của dân tộc. Không khí buồn thảm cũng bao trùm khắp thế
giới. Mọi người đều cảm nhận rằng ngày hôm đó trái đất trở nên cằn cỗi, nghèo
nàn hơn, bởi vì đã mất đi một người con vĩ đại, một người con đã lãnh đạo cuộc
đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc mà không cần dùng đến khí giới của bạo động
và hận thù. Chính Ngài đã từng nói: Tình Yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất, nhưng
cũng là sức mạnh vạn năng mà thế giới đang có.
Tình Yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất,
nhưng cũng là sức mạnh vạn năng mà thế giới đang có trong tay.
Chiến tranh và không biết bao nhiêu
vấn đề mà thế giới ngày nay đang phải giải quyết, dường như thế giới chỉ muốn
giải quyết bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Sức mạnh vạn năng mà thế giới
đang có trong tay là tình yêu, chỉ có một số ít người đang dùng đến.
Mục sư Luther King, người da đen,
đang sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da
đen được đứng lên làm người như người da trắng. Giám mục Desmond Tutu, người
Nam Phi da đen cũng đang đi theo vết chân của Gandhi và Luther King. Mẹ Teresa
thành Calcutta cũng đã dùng khí giới của tình thương để cho những người không
nhà không cửa, những người hấp hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những
con người.
Tất cả những mẫu gương trên đây chỉ
là những phản ánh của một tình yêu trọn vẹn hơn, đó là tình yêu của Ðấng đã chịu
chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã nói: Khi nào Ta chịu treo lên khỏi đất,
Ta sẽ kéo tất cả mọi người về với Ta.
Người Kitô chúng ta đang ở trong sức
kéo ấy. Ngài đã cho chúng ta được sát nhập vào thân thể của Ngài và truyền cho
chúng ta chính sức sống của Ngài. Người Ki-tô chỉ có thể là người Ki-tô khi họ
sống bằng chính Sức Sống và Tình Yêu của Ngài.
Trích Lẽ sống
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô. (Mc 12, 1-12)
Khi ấy, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà
nói với các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão rằng: "Có người trồng một vườn
nho, rào dậu xung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp, đoạn cho tá điền thuê
vườn nho và trẩy đi phương xa.
"Ðến kỳ hạn, ông sai đầy tớ đến
với tá điền thu phần hoa lợi vườn nho. Nhưng những người này bắt tên đầy tớ
đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai đầy tớ khác đến với họ. Người này
cũng bị chúng đánh vào đầu và làm sỉ nhục. Nhưng người thứ ba thì bị chúng giết.
Ông còn sai nhiều người khác nữa, nhưng kẻ thì bị chúng đánh đập, người thì bị
chúng giết chết.
"Ông chỉ còn lại một cậu con
trai yêu quý cuối cùng, ông cũng sai đến với họ, (vì) ông nghĩ rằng:
"Chúng sẽ kiêng nể con trai ta". Nhưng những tá điền nói với nhau rằng:
"Người thừa tự đây rồi, nào ta hãy giết nó và cơ nghiệp sẽ về ta". Ðoạn
chúng bắt cậu giết đi và quăng xác ra ngoài vườn nho. Chủ vườn nho sẽ xử thế
nào? Ông sẽ đến tiêu diệt bọn tá điền và giao vườn nho cho người khác. Các ông
đã chẳng đọc đoạn Thánh Kinh này sao: "Tảng đá những người thợ xây loại
ra, trở thành đá góc tường. Ðó là việc Chúa làm, thật lạ lùng trước mắt chúng
ta". Họ tìm bắt Người, nhưng họ lại sợ dân chúng. Vì họ đã quá hiểu Người
nói dụ ngôn đó ám chỉ họ. Rồi họ bỏ Người mà đi.
Suy niệm:
Cầu nguyện:
Lạy Cha là Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Cha yêu thương chúng con vô vàn, ngay từ khi nguyên tổ loài người chúng con lỗi phạm phản bội Cha, lòng thương xót của Cha đã bao phủ trên nhân loại chúng con. Cha đã ban chính Người Con Một yêu dấu của Cha xuống thế làm người để cứu chuộc chúng con bằng cái chết trên Thập giá. Vậy mà, lạy Cha, nhiều lúc chúng con vẫn cố chấp, vẫn sẵn sàng quay lưng lại tình yêu của Cha chỉ vì những ích kỷ, những tự ái, những mối lợi trước mắt. Và có cả những lúc vì quá khó khăn, quá gian truân trong cuộc sống mưu sinh chúng con đánh mất niềm tin, nghi ngờ tình yêu của Cha. Xin cho Lời Con Cha mà mỗi ngày chúng con đọc và cầu nguyện giúp chúng con từng ngày, từng ngày cảm nếm và vững tin vào tình yêu của Cha hơn. Amen.
Người chết vì yêu
Ca sĩ: Elvis Phương
Sáng tác: Lm. Văn Chi
ĐK1a: Ngày đó chiều nắng vàng, trên
đồi Gô-tha vắng. Chiều đó, có ai cô đơn chết vì yêu. Yêu, yêu nhân trần tội lỗi.
Yêu con người đắm đuối, chết đớn đau u sầu.
ĐK1b: Người đó là Chúa Trời, làm
người nơi dương thế. Tình mến chứa chan khơi trên mắt buồn vương. Cơn đam mê bừng
rực sáng, yêu thương bằng cái chết, tiếng yêu vang vọng đêm trường.
1. Xin Ngài thương ban cho con, một
tình yêu nồng thấm đáp lại mối tình Cha. Yêu cho con yêu thập tự, cho con say
tình Ngài, giữa dòng đời hôm nay.
(ĐK1b)....
2. Xin Ngài thương ban cho con, một
niềm tin mạnh mẽ, dẫu đời lắm khổ đau. Xin cho con yêu mọi người, cho con đi
vào đời, dẫu cuộc đời chua cay.
3. Xin Ngài thương xem con đây. Một
người con tội lỗi, đã phụ mối tình Cha. Xin cho con quay trở về, cho ăn năn thật
lòng, đáp lại tình Cha yêu.
ĐK2: Và nhớ này hỡi người, trong cuộc
đời dương thế. Ngài đã chết đi, mang thương mến người ơi. Xin cho tôi đừng quên
lãng, yêu thương đừng gian dối, chứng nhân cho Ngài giữa đời.
Trước khi
là ngày lễ Ki-tô giáo, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống là một lễ Do Thái. Lễ này
đã từng có từ nhiều thế kỷ, đó là một ngày lễ hội nhà nông, mừng mùa gặt hái,
nhưng dần dần các kỷ niệm về Giao Ước được ghép vào đó và ý nghĩa tôn giáo trội
vượt hơn những ý nghĩa khác.
Cũng nên nhắc
lại Lễ Vượt qua đã có trước ông Mô-sê. Các nghi thức diễn tả việc các nông dân
và cả người làm nghề chăn nuôi mừng mùa xuân đến. Và có lẽ có mối liên quan giữa
hai lễ, một lễ là đầu mùa xuân, lễ kia là vào cuối mùa gặt hái. Hai lễ cách
nhau một mùa gặt, có thể từ 6 đến 8 tuần. Thế mà sách Xuất Hành kể lại rằng cuộc
giải thoát khỏi Ai Cập xảy ra vào ngày Lễ Vượt Qua. Từ nay khi cử hành các nghi
lễ của tổ tiên vào mùa xuân, tưởng niệm Lễ Vượt Qua, cũng là dịp suy niệm Thiên
Chúa giải thoát dân Ngài.
Vì lẽ đó dần
dần lễ Vượt Qua trở thành lễ Thiên Chúa giải thoát khỏi Ai-cập. Cũng như thế,
sách Xuất Hành nói cho chúng ta Thiên Chúa đã ban các Bia Lề Luật cho ông Mô-sê
vài tuần sau ngày được giải thoát khỏi Ai-cập và vì vậy lễ được mùa cũng được
thêm một ý nghĩa mới phong phú: trở thành Lễ được ban Lề Luật. Sau này người ta
ấn định ngày cho hai lễ ấy, hai lễ cách nhau chính xác 7 tuần (lễ Ngũ tuần theo
tiếng Do Thái là « shavouôth », có
nghĩa là « những tuần », theo tiếng
Hy-lạp là « pentecôte » nghĩa là « năm mươi »: 7 tuần lễ, tức là 49 ngày, lễ
mừng ngày thứ năm mươi.)
Lễ Hiện xuống:
là lễ mừng năm mươi ngày tiếp theo sau lễ Phục Sinh, bế mạc năm mươi ngày trong
mùa Phục Sinh bằng việc cử hành mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các
Tông Đồ và Giáo Hội. Đây là một trong những lễ đầu tiên được cử hành thời Giáo
Hội sơ khai, sau lễ Phục Sinh. Đến năm 1955, lễ này có thêm lễ vọng được tổ chức
theo khuôn mẫu Lễ Vọng Phục Sinh.
Nguồn: Bà Marie-NoëlleThabut
& Sách Giáo lý Bao đồng 1
"Như Cha sai Thầy, Thầy cũng
sai các con: các con hãy nhân lấy Thánh Thần"
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo
Thánh Gio-an
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất
trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người
Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!
"
20 Nói xong, Người cho các ông xem
tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
21 Người lại nói với các ông:
"Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh
em."
22 Nói xong, Người thổi hơi vào các
ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.
23 Anh em tha tội cho ai, thì người
ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
Suy niệm:
Thời khởi nguyên vũ trụ, khi dựng nên loài người, Thiên Chúa đã thổi sinh khí
ban cho con người sự sống. Hôm nay, Ðức Giêsu Phục Sinh cũng thổi Thần Khí vào
các môn đệ. Các ông được lãnh nhận Thánh Thần. Lãnh nhận sự sống của Ðức Giêsu.
Trong Chúa Thánh Thần, các môn đệ sẽ tiếp tục sứ mạng của Ðức Giêsu: Thông ban
sự sống và ơn tha tội. Trong Chúa Thánh Thần, Hội Thánh của Ðức Giêsu được hình
thành từ hạt nhân là các môn đệ.
Mỗi tín hữu chúng ta được
Chúa Thánh Thần qui tụ, thôi thúc và ban ơn để làm chứng cho Ðức Giêsu ngay
trong cuộc sống của mình. Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta phá vỡ mọi ngăn
cách, kỳ thị để mọi người thực sự liên đới, cảm thông và hiệp nhất với nhau. Ðể
mọi người được sống trong hạnh phục.
ĐGM Giu-se Nguyễn Năng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến đổi mới đời sống chúng con, giúp chúng con không còn sợ hãi, rụt rè mà can đảm sống đời chứng nhân cho Chúa giữa thế giới hôm nay. Amen.
Khi Giáo hội
phong chức phó tế cho một người đàn ông đã lập gia đình, Giáo hội đòi hỏi sự đồng
ý của người vợ. Vì thế chức phó tế đã làm thay đổi đời sống vợ chồng và gia
đình.
Một người vợ cùng chồng của mình là một thầy phó tế
Pháp trong ngày Năm Thánh Phó tế 30 tháng 5-2016 ở Rôma.
Ở Pháp, 90%
thầy phó tế vĩnh viễn là những người đã lập gia đình. Luật giáo hội buộc phải
có mười năm đám cưới trước khi chịu chức phó tế. Nếu thầy phó tế góa vợ, ông
không được tái hôn, trừ trường hợp đặc biệt (các con còn nhỏ tuổi), như thế phải
có luật miễn của Vatican.
Bà Pascale
có chồng chịu chức phó tế cách đây ba năm, bà cho biết, “Sau khi Jean chịu chức
phó tế, tôi rất phẫn nộ”. Bà là mẹ của một gia đình hoạt động tích cực trong
giáo xứ Poissy (Yvelines). Trong những năm chồng được đào tạo để chịu chức phó
tế, bà bình tâm tháp tùng chồng trong những năm phân định này để cùng được đào
tạo bên cạnh chồng, họ có nếp sống kín đáo và “thu mình trong lòng Chúa”. Đó
cũng là dịp để đào sâu đời sống thiêng liêng của vợ chồng, những giây phút chia
sẻ phong phú đời sống tu sĩ và trí tuệ. Chồng vừa chịu chức phó tế xong, bà “đối
diện với một loạt chấn động mà trước đây bà chưa hình dung đến”. Người chồng
túi bụi với công việc, “hoàn toàn vui thú với các chân trời mới”, bà khó để tìm
chỗ đứng của mình, đôi khi lại ghen tương – “Tôi cũng theo khóa đào tạo!”,
Pascale có cảm tưởng mình bị xâu xé. Ba năm sau bà mới được bình an và tìm lại
được quân bình. Nhưng đời sống của vợ một phó tế không phải là không có thách
thức.
Khi một phó
tế đã có gia đình chịu chức (9 trên 10 trường hợp), giám mục hỏi người vợ:
“Giáo hội xin tôi phong chức phó tế cho chồng của bà. Bà có chấp nhận tất cả những
gì chức phó tế sẽ mang lại điều mới mẻ cho vợ chồng bà và đời sống gia đình của
bà không?”. Nghi thức không giấu giếm; lời “xin vâng” của bà vợ đưa bà vào
trong một cuộc sống vừa phong phú, vừa phức tạp, có những niềm vui… nhưng cũng
có những từ bỏ; bây giờ, ngay trong thánh lễ chịu chức, người chồng ở cung
thánh, còn bà ngồi hàng đầu với cộng đoàn. Mặc áo chùng, thầy phó tế nằm dài dưới
đất. Rồi giám mục đặt tay lên đầu anh, anh hứa vâng lời giám mục, bàn tay nắm tay
ngài. Và lời nhắc lại, đi theo chồng trong sứ vụ của một người chịu chức, từ
khi Công đồng II khôi phục lại chức phó tế vĩnh viễn và việc mở ra chức này cho
những người đàn ông “chín chắn dù họ đã lập gia đình” .
Bà Pascale
kể cái nhìn mới trong giáo xứ mà bà phải tập làm quen: “Dù muốn hay không, giáo
dân nhìn mình một cách khác. Không phải chỉ một mình ông chồng, mà các giáo dân
cũng thấy đây là một cái gì lớn hơn chính ông – nhiều người cho biết như vậy và
đó là một chuyện rất đẹp -, nhưng cũng cho cả gia đình. Phải bắt đầu học để xem
sự kiện mới này mang đến cho mình một con đường tự nguyện hơn: Thiên Chúa đòi
chúng ta phải thay đổi, Ngài biết chúng ta quá rõ! Đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ
một cái gì của chính mình để đảm trách cái nhìn hơi nặng để mang này”.
Sứ vụ đầu tiên của thầy phó tế đã lập gia đình: chính
gia đình của thầy
Bà
Bénédicte có chồng là Philippe chịu chức phó tế năm 1998 ở giáo phận Nice, bà
cho biết đã rất hạnh phúc được cùng chồng theo học sáu năm phân định và đào tạo.
Những năm này giúp cho bà hiểu được các từ bỏ mà một con đường như vậy được ấn
định: “Khi tôi thấy các cặp về hưu sớm đi nghỉ hè, vui chơi bên bạn bè và con
cháu, tôi nghĩ chúng tôi không thể nào làm như vậy”. Bà là mẹ của năm người con
và bây giờ là bà ngoại. Vào cuối tuần theo lẽ vui chơi với con cái thì Philippe
luôn bận với công việc mục vụ. Còn bà Bénédicte thì không phải lúc nào cũng có
cuộc sống xã hội với bạn bè như bà mong ước vì không có thì giờ. Bà cho biết,
“điều quan trọng là phải biết nói ‘không’ khi đời sống vợ chồng và gia đình bị
đe dọa” mà không vi phạm vào lời hứa vâng lời mà mình đã hứa. Bà Bénédicte còn
nhớ mình đã trải qua “cơn khủng hoảng của đời sống vợ chồng” khi chồng bà nhận
lời làm tuyên úy cho cả một trường học khi ông đang còn làm việc và khi sức khỏe
của ông bị yếu. Bà cho biết, “anh cảm thấy bắt buộc phải nhận lời vì đến tháng
9 mà người ta vẫn chưa tìm ra ai để làm. Nếu cứ nhận thì cuối cùng cũng không
chạy việc”. Ngày nhận chức phó tế, vị giám mục đã dặn rõ ràng, sứ vụ đầu tiên của
một phó tế đã lập gia đình là sứ vụ lo cho gia đình. Hai ông bà nghe lời, họ đã
lên chức ông bà nội ngoại, và với sự đồng ý của cha xứ, họ có một tháng nghỉ hè
ở căn nhà vùng Breton của họ.
Ngược với
truyền thống của các người công giáo đông phương, thầy phó tế có vợ là mới gần
đây trong lịch sử giáo hội la-tinh: “Công đồng cho chúng ta một món quà quý,
nhưng cũng như tất cả mọi món quà, món quà nào
cũng cần được mở ra xem và làm quen với nó”, thầy phó tế Gilles Rebêche
giải thích. Thầy độc thân và là một trong các thầy phó tế vĩnh viễn đầu tiên,
cùng với Đức Giám mục Gilles Barthe, thầy đã đào sâu nhiều về chức phó tế. Giám
mục Barthe là giám mục đã phong chức cho thầy và đã tham dự Công đồng: “Chúng
ta bây giờ vẫn còn trong giai đoạn mở món quà!”.
Bà Marie-Françoise
Maincent là vợ của một phó tế và là tác giả một luận án tốt nghiệp cao học về thần học có đề tài Các bà vợ trong chức
phó tế, giữa Ghi nhận và Thỉnh cầu, bà chia sẻ phân tích sau trong một buổi hội
thảo của các giám mục ở Strasbourg vào tháng 6 năm 2015: “Như thế Giáo hội đã mở
ra một chương mới, các tín hữu công giáo và ngay cả các thầy phó tế nhận ra chỗ
đứng của các bà vợ các thầy phó tế có rất ít điểm mốc trước đây”.
Trong vòng
vài chục năm, Giáo hội đã phải học để tháp tùng các người vợ của các thầy phó tế
cho được tốt hơn – dù một số bà vẫn còn cảm thấy mình bị bỏ rơi. Phải nói là có
rất nhiều vụ chia tay và ly dị xảy ra nơi các cặp phó tế vĩnh viễn đã làm chấn
động các giám mục ở Pháp trong những năm đầu tiên thiết lập chức phó tế vĩnh viễn.
Linh mục Stéphane Maritaud, linh mục tổng đại diện ở giáo phận Bourges cho biết:
“Mới đầu sự đào tạo các thầy phó tế còn thiếu sót, không có một chăm sóc theo
dõi nào cho các bà vợ của các thầy phó tế”. Bây giờ, nếu linh mục thấy trong
quá trình đào tạo, mà một bà vợ của thầy phó tế nào bị xa cách, thì bà đó sẽ được
để ý, để nhắc lại cho hai vợ chồng hiểu, họ phải cùng đi trên cùng một con đường.
Bà Marie-Françoise Maincent là đại diện cho các bà vợ của các thầy phó tế ở Hội
đồng Quốc gia Phó tế (một hội đồng ở trong Hội đồng Giám mục Pháp) trong sáu
năm, bà còn nhớ trong một thời gian dài, chỗ đứng các bà vợ của các thầy phó tế
vẫn là chuyện cấm kỵ: ”Khi tôi đến đây năm 2001, tôi không nghe nói đến ‘vấn đề’
của các bà vợ. Nhưng bây giờ thì mọi sự đã thay đổi: người ta đi từ ‘vấn đề’
qua ‘địa bàn’ của các bà vợ”.
Trong các
khó khăn nêu ra trong các cuộc điều tra của bà Maincent, bà cho biết “một vài
bà không cho phép mình nói đây là một chuyện không dễ”. Bà nói đến một hiểm
nguy quan trọng rơi hoàn cảnh khó xử khi, chẳng hạn, một bà vợ chấp nhận cho chồng
chịu chức phó tế vì không muốn làm tổn thương chồng hoặc mình bị cho là thiếu bổn
phận. Bà Maincent giải thích: “Không phải dễ cho một bà vợ tự nguyện, vì chính
đó là ơn gọi của chồng, chứ không phải của họ, làm cho họ mang một trách nhiệm
nặng nề. Dù sao, điều chủ yếu là quyết định cũng phải là quyết định của người vợ,
để chức phó tế được sống tốt trong đời sống vợ chồng”. Trong những cuộc gặp gỡ
tổ chức cho các bà vợ mà hai vợ chồng cần phân định cho ơn gọi chức phó tế, bà
mời họ suy nghĩ về bản chất lời “xin vâng” mà họ sẽ nói: “Có phải đó là một sự
chấp nhận? Một sự cho phép? Một sự cam chịu? Một sự từ nhiệm? Một sự lên chức?
Hay một sự tự nguyện gắn kết và sáng suốt cho việc chịu chức của chồng mình?”.
famillechretienne.fr, Sophie le Pivain
Marta An Nguyễn (phanxico.vn) chuyển dịch
Đời mỗi người
Kitô hữu là một ơn gọi theo Chúa. Ta hãy đáp lại ơn gọi yêu thương đó tùy theo
bậc sống trong hoàn cảnh riêng của mình, với niềm phó thác cậy trông vào Chúa.
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. (Ga 21, 20-25)
Khi ấy,
Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát
ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi "Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?"
Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Còn người này thì
sao?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy
đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy". Vì thế, có tiếng đồn
trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô:
"Nó sẽ không chết", mà Người chỉ nói: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại
mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con".
Chính môn đệ
này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của
người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc
một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.
Một chút suy tư:
Cầu nguyện: Lạy Chúa,
Chúa mời gọi mỗi người chúng con theo Chúa trong bậc sống của mình. Là một người
chồng, người cha trong gia đình, Chúa muốn con theo Chúa bằng cách chu toàn bổn
phận chăm lo cho gia đình, nuôi dạy con cái nên người, vợ chồng biết hy sinh,
nhường nhịn yêu thương nhau. Là một thành viên trong đoàn thể, Chúa muốn con biết
hòa đồng, biết dấn thân vì lợi ích chung. Là một thành phần của xã hội, Chúa muốn
con phải có trách nhiệm với đồng loại, với môi trường chúng con sinh sống. Lạy Chúa,
xin giúp con can đảm bước theo Chúa qua việc chu toàn bổn phận và trách nhiệm hằng
ngày của chúng con. Amen.
Chứng nhân tình yêu
1/ Khi con nghe tiếng kêu mời, gọi con đi gieo niềm tin mới. Con nay như thấy ngỡ ngàng vì Chúa đã đoái thương chọn con. Rồi một ngày Thánh Thần Chúa đến thánh hiến con cho Ngài, sai con đi khắp mọi nơi rắc gieo tin vui cho muôn người. ĐK: Này đây Chúa ơi con hiến dâng cho Ngài: "niềm tin, tâm tư cùng trái tim nồng cháy". Từ đây hăng say theo bước chân của Ngài, trung kiên làm chứng nhân Nước Trời, thắp lên hạnh phúc cho muôn người. 2/ Con say sưa với tháng ngày, Tình Yêu cho con nguồn sức sống. Con hân hoan bước trên đường Hồng Phúc bát ngát xanh đồi nương. Để tìm lại những tình thương, quá khứ héo úa trong muôn lòng. Cho quên đi những sầu vương, Chúa ơi xin thương ai đoạn trường. 3/ Trong tâm tư biết bao người ngày đêm cô đơn buồn không nói. Nhưng đâu ai đến với họ để hát tiếng hát trong niềm vui. Vì nhiều người vẫn nghèo đói, thế giới thiếu vắng bao nụ cười. Xin cho nhau những tình thương, sớm mai cơn mê đã tan rồi. 4/ Xin cho con suốt một đời, Tình Yêu cho đi làm lẽ sống. Xin cho con biết trung thành hoàn tất những bước chân đẹp xinh. Nguyện một đời con tìm đến với hết những ai chân tình. Để tình người vẫn còn xanh ngát hương như hoa xuân trên cành.
“Đừng khóc thương tôi, Sudan”. Một
cuốn phim tài liệu đã làm rung động hàng triệu trái tim về cuộc đời vị mục tử,
đó là linh mục Gioan Lee Tae-seok (người Hàn Quốc), cha là người mục tử của những
người nghèo tại Sudan, một nước nghèo nhất trên thế giới. Sau khi tốt nghiệp
bác sĩ y khoa, cha đã bỏ tất cả công danh sự nghiệp, để đi theo tiếng gọi của
Chúa, và trở thành một linh mục truyền giáo cho người phong cùi và người nghèo
tại đây. Ngài được truyền chức linh mục tại Tòa Thánh Vatican, cha tình nguyện
xin đi truyền giáo cho người nghèo và bệnh tật tại các làng Tonj thuộc miền Nam
Sudan, Phi Châu trong suốt 8 năm trước khi ngài qua đời vì căn bệnh ung thư đường
ruột, ở tuổi 48.
Sinh trưởng trong một gia đình
nghèo khó gồm 10 anh chị em, Gioan Lee Tae Suk là người con thứ chín. Năm lên 9
tuổi, người cha qua đời. Người mẹ đã phải vất vả, tần tảo làm nghề may vá để
nuôi 10 người con. Ngay từ khi còn bé, cậu Gioan Lee đã phải sống trong cảnh
nghèo khó, có những ngày tháng cậu bé Gioan Lee đã phải lang thang với mẹ ngoài
đường, sân chơi chính là ngôi Thánh đường. Một ngày nọ, khi chứng kiến cảnh một
người ăn xin nghèo khó, rách rưới, Gioan Lee Tae Suk chạy về nhà và hỏi mượn
người chị 1 cây kim và sợi chỉ để khâu lại chiếc quần cho người ăn xin.
Trong cuốn tự thuật: “Các con là những
người bạn của cha”, linh mục Gioan Lee đã nói rằng, động lực thúc đẩy ngài đến
miền Nam Sudan. Vì trong thời thơ ấu,
cha Lee đã cảm nhận được sự hy sinh, vất vả của người mẹ lo lắng cho 10 người
con. Khi lớn lên, cha nhìn thấy những tấm gương hy sinh phục vụ của các linh mục,
các sơ và chính người anh linh mục, và một người chị là nữ tu. Đặc biệt là sự
hy sinh của người mẹ khi bà chấp nhận cho cha Gioan Lee từ bỏ con đường sự nghiệp
bác sĩ để trở một thành linh mục cho Chúa. Người mẹ đã khước từ sự giàu sang để
sẵn sàng nâng đỡ cha Gioan Lee đi theo tiếng gọi của Chúa. Đó là những tấm
gương sáng và là động lực thúc đẩy cha đi đến Sudan để truyền giáo một nơi nghèo
khổ, để phục vụ cho những người nghèo và bệnh tật. Tại nơi đây, cha đã xây dựng
một ngôi trường mẫu giáo, một trường trung học, và một bệnh xá cho người nghèo
và chính cha đã dạy môn toán cho các em.
Theo như lời cha Gioan Lee chia sẻ,
trong công việc truyền giáo, ngài dùng âm nhạc để giúp cho những đứa trẻ tại
Nam Sudan đã quen cầm súng đạn, thì chính âm nhạc làm cho tâm hồn các em có được
niềm vui trong cuộc sống. (trích Đừng Khóc Thương Tôi, Sudan).
Đời sống chứng nhân của cha Gioan
Lee vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp của người mục tử trong thế kỷ 21 này. Ngài là
hình ảnh chân dung mục tử nhân lành, chết cho đoàn chiên được Chúa Giêsu minh họa
trong Tin Mừng hôm nay. Lời mời gọi đó chỉ có ý nghĩa và thiết thực hơn chính
là bằng đời sống chứng nhân của các vị mục tử hy sinh vì đoàn chiên, chết cho
đoàn chiên. Khi tìm hiểu về cuộc đời và ơn gọi của cha Gioan Lee, tôi rút ra được
những bài học sau đây:
1/ Người mục tử chăm sóc đoàn
chiên.
Cha Gioan Lee đã nhận ra được tình
yêu Thiên Chúa rất mãnh liệt, ngài đã khước từ sự giàu có và danh vọng với cái
bằng bác sỹ để bước đi theo Chúa. Chính sức mạnh tình yêu đó đã giúp cha sống
trọn vẹn cho những người nghèo. Tôi thật sự xúc động khi nhìn thấy cha Lee đến
quỳ xuống để rửa vết thương cho những người phong cùi, băng bó những vết
thương, làm những đôi dép bằng chính tay của ngài để cho họ có thể đi bằng đôi
chân của mình. Cha Gioan Lee sống với họ bằng cả trái tim yêu thương, không
phân biệt đối xử, hay có khoảng cách với những người bệnh tật, nhất là người bị
phong cùi, hoặc sợ hãi trước bất cứ điều gì với những con người bất hạnh. Điều
đó không phải dễ dàng đối với chúng ta khi ta đang sống trong một môi trường có
quá nhiều tiện nghi và đầy đủ.
2/ Người mục tử sống và chết cho
đoàn chiên
Người mục tử không chỉ nói bằng lời
mà là sống thực hiện bằng hành động sống với đoàn chiên ngài dẫn dắt tới hơi thở
cuối cùng. Cha Gioan Lee không chỉ rao giảng và là sống bằng đời sống đức tin của
mình qua việc giúp đỡ những người phong cùi, chữa bệnh và dạy các em học. Sự hy
sinh phục vụ của cha đẹp như là những loài hoa biết nói, để tỏa hương sắc tình
yêu đến cho mọi người chung quanh với thái độ tiếp đón ân cần với bệnh nhân. Mỗi
lần cha đến thăm họ, ngài mang cho mỗi người chiếc áo để cho họ mặc, đôi dép tự
tay ngài làm cho người có đôi bàn chân dị dạng, ngài cho nụ cười và mang lại niềm
tin yêu. Lời Chúa không chỉ rao giảng trong thánh đường, mà là thực hành bằng
cuộc sống đời thường. Cha John Lee cho họ có thêm nghị lực để vượt qua nghèo khổ
và bệnh tật. Với người già nua và bệnh tật, ngài không bao giờ từ chối khi có bệnh
nhân đến cần được chữa trị giữa đêm khuya. Đời sống chứng nhân của cha John Lee
vẽ lại hình ảnh người mục tử nhân lành mà Chúa Giê-su giao phó cho thánh Phê-rô
trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, và trở thành muối men cho đời. Người dân nơi
đây gọi ngài bằng một tiếng thân thương người cha của dân tộc khi tưởng nhớ và
vĩnh biệt ngài.
Sau cùng, tất cả những gì cha John
Lee làm cho người dân Sudan, chính là ngài muốn vẽ lại hình ảnh Mục Tử Nhân
Lành Giêsu, Người đã yêu thương và chết cho tất cả chúng ta. Người mục tử nhân
lành không chỉ hiểu biết về con chiên mà thôi chưa đủ, người mục tử ấy còn phải
dám hiến thân cho đàn chiên. Ngài chấp nhận hy sinh mạng sống mình để bảo vệ và
cứu chuộc chúng ta đến cùng:” Chính Tôi là Mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành
hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Mà chính Cha Gioan Lee đã sống và chết
cho người nghèo khổ tại Sudan vì ngài muốn đáp lại tình yêu của Thiên Chúa.
Ngài muốn đáp lại tiếng gọi đi theo Chúa bằng tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài là Mục Tử Nhân
Lành, xin cho các vị mục tử của Chúa dám sống và chết cho đoàn chiên mình.
Amen.
Lm. John
Nguyễn.
Nguồn: congdoanutica.com
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan. (Ga 21, 15-19)
Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho
các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon,
con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp:
"Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con
hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người lại hỏi: "Simon, con ông
Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết
con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của
Thầy".
Người hỏi ông lần thứ ba:
"Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền,
vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp:
"Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy" Người bảo
ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con
biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già,
con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con
không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm
sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo
Thầy".
Một chút suy tư: Hôm nay, Chúa Giê-su trao cho Phê-rô
một cơ hội để chuộc mình. Ngài gọi đi gọi lại Phê-rô để nhắc ông về một tình bằng
hữu chứ không phải để nghi ngờ gì về con tim của ông. Mỗi câu hỏi là một lời nhắc
nhở giúp ông tiến đến một tình yêu sâu sắc và thân mật hơn với Chúa. Mỗi lần
như vậy Phê-rô đều trả lời một cách dứt khoát. Cuộc trao đổi ngày càng trở nên
căng thẳng hơn đặc biệt là về phía Phê-rô.
Và cuối cùng, ông đã giữ vững sự
kiên định của mình. Trong khoảnh khắc đó, ông phải quyết định số phận của mình
với sự lựa chọn những gì mà ông sẽ làm. Và Phê-rô, vị lãnh đạo nóng nảy, đôi
khi còn có vẻ ngây ngô kém hiểu biết đã đứng vững và tự hào với khám phá mới của
mình rằng Chúa Giêsu mới là trung tâm của cuộc đời ông. Sẽ không còn chỗ để
nghi ngờ nữa. Tình yêu cuối cùng đã tìm được một vị trí trong trái tim của
Phê-rô và sẽ ở lại đó suốt quãng đời còn lại.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giê-su, khi giao phó sứ mạng chăn dắt đàn chiên Chúa cho thánh Phê-rô, Chúa chỉ yêu cầu ngài một điều duy nhất: yêu mến Chúa. Ngày nay, Chúa cũng đang trao cho mỗi người chúng con sứ mạng mục tử nơi gia đình, nơi đoàn thể, nơi môi trường sống và Chúa cũng chỉ muốn chúng con thực thi sứ vụ ấy với tất cả lòng yêu mến Chúa, yêu mến anh em.
Xin cho chúng con có lòng yêu mến Chúa đủ để lan tỏa đến anh chị em một hình ảnh Giê-su - mục tử nhân lành - qua những nỗ lực sống bác ái từng chút từng chút của chúng con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
HÃY THEO THẦY
1/ Hãy theo thầy, tiếng Ngài gọi con
hôm nay, tiếng Ngài gọi con, gọi con hãy theo Ngài. Chúa gọi con từ sớm mai hồng,
gọi con khi mặt trời đứng bóng, gọi con khi chiều sắp buông. Hãy theo thầy, tiếng
Ngài gọi con trìu mến, bước theo thầy này lòng con quyết theo Ngài.
ĐK: Con theo Chúa bằng cả trí và tâm
con, con theo Chúa bằng cả trí và tâm con. Con theo Ngài con bước theo Ngài con
bước đi hoài. Đi theo Chúa chẳng cần biết ở đâu, chẳng cần biết làm gì, dù ở
đâu hay làm chi, con vẫn đi trong đường Ngài.
2/ Hãy theo thầy, Chúa hằng gọi con sớm
hôm, tiếng Ngài gọi con, gọi con hãy lên đường. Dẫu đời con những bước thăng trầm,
mùa đông hay mùa nắng ấm, theo Chúa con nguyện hiến thân. Con vững tâm lên đường,
vác thập tự gieo sự sống, con vẫn nhủ lòng, này đời con bước đi đến cùng.
3/ Bước theo thầy, có Ngài cùng đi với
con, có anh chị em, cùng đi với con trên đường. Trên đường đi đâu phải một
mình, con có Giáo Hội tiếp sức, có Chúa nâng từng bước chân. Hãy theo Thầy, vững
niềm cậy trông từ đây, bước theo Thầy, trọn đời con chỉ đi theo Ngài