Sứ Ðiệp Của Một Người Tàn Tật
Hằng năm tổ chức có tên là "Tự
nguyện chịu đau khổ" hành hương đến Lộ Ðức để chia sẻ kinh nghiệm của họ
khi đối đầu với đau khổ. Năm 1982, khách hành hương đã chú ý đến lời chia sẻ của
Jacques Lebreton, một phó tế vĩnh viễn không tay, mù mắt. Chúng ta hãy lắng
nghe chứng từ của ông:
Sau trận đánh ở El Alamem, tôi và
các bạn của tôi đang lo gỡ mìn. Một anh bạn tôi cầm một quả lựu đạn và vô tình
mở chốt. Trong cơn hốt hoảng, anh trao cho tôi. Tôi cứ tự nhiên cầm lấy quả lựu
đạn. Nó đã nổ tung trong tay tôi. Tôi tối tăm mặt mũi, không nói được nữa. Tôi
cảm thấy mình đang chết. Tôi chỉ còn là một người không tay, không mắt... Tôi
toan tự tử.
Trên giường bệnh ở nhà thương, tôi,
một người đã không giữ đạo từ lâu, tôi bắt đầu cầu nguyện. Tôi xin được rước lễ.
Tôi đã hiểu nguyên do sự đau khổ của tôi là tội lỗi nhân loại: đó là thù oán,
kiêu căng, chiến tranh... Và tôi đã tìm lại được sự an vui và trông cậy.
Tôi cảm thấy một cái gì tương tự
như Chúa Giêsu trong vườn Giêtsêmani. Ngài cũng không muốn chịu đau khổ. Ngài
đã van xin: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén
này", nhưng liền sau đó, Ngài lại thưa: "Lạy Cha, xin vâng theo ý
Cha". Sau thảm kịch Golgotha, Ngài đã sống lại. Chính nhờ mầu nhiệm chết
và sống lại mà Chúa Kitô muốn cho chúng ta cùng sống. Tôi đã đạt đến mức độ
không phải là chịu đựng mà là chấp nhận. Chịu đựng là một thất bại. Chấp nhận
là một chiến thắng. Trên giường bệnh, tôi đã khóc, khóc vì sung sướng với ý
nghĩ ấy. Ðiều mà tự nhiên tôi cũng không thể chịu được, nay nhờ ơn Chúa tôi đã
chịu được.
Như lời văn hào Mauriac nói:
"Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng để cùng hiện diện với những
người đau khổ". Tôi đã cảm nghiệm được lời Chúa phán: "Phúc cho những
kẻ khóc lóc, phúc cho những kẻ đau khổ".
Tại Evreux, tôi được gặp một người
đàn bà hoàn toàn bất toại, đến nỗi không thể nói được. Nhưng nhờ ngón chân cái
của bà, bà có thể máy động bàn chữ cái trên một miếng ván và bà đã tặng cho tôi
một bài thơ có tựa đề "Nụ cười".
Tôi liên tưởng đến một người đàn
ông khác, bị điếc lúc 14 tuổi, mù từ lúc lên 16 tuổi. Trên giường bệnh, lúc hấp
hối, người đàn ông 87 tuổi này đã thốt lên như sau: "Tôi đã trải qua một
cuộc đời tốt đẹp".
Ông Jacques Lebreton kết luận như
sau: "Tôi, một người không tay, không mắt, tôi cũng thấy đời tươi đẹp. Cuối
cùng, sự tàn tật lớn lao nhất là bị chia lìa với Thiên Chúa. Tôi không thể nói
như vậy, nếu tôi lành lặn với đôi mắt và đôi tay. Nhưng tôi có thể nói như vậy
vì tôi biết thế nào là sống xa Chúa. Và hôm nay, sau một chặng đường dài, tôi lớn
tiếng kêu lên với tất cả các người anh em của tôi rằng: Thiên Chúa hằng sống. Ðức
Kitô đã sống lại".
Ðã có khoảng 6,000 vụ lành bệnh lạ
lùng được ghi nhận tại Lộ Ðức, trong số này chỉ có 64 vụ được Giáo Hội công nhận
là phép lạ. Nhưng phép lạ cả thể nhất của Lộ Ðức cũng như của những trung tâm
Thánh Mẫu khác: chính là phép lạ của lòng tin. Và trong những phép lạ của lòng
tin ấy, kỳ diệu hơn cả vẫn là niềm tin, sự chấp nhận, tinh thần lạc quan của
chính những người đau khổ. Trong niềm đau tột cùng trong thân xác cũng như tâm
hồn, những con người ấy vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống, tình yêu cao cả
của Chúa. Ðó chính là phép lạ mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện qua những người có
lòng tin. Và đó cũng là phép lạ mà chúng ta không ngừng kêu cầu Chúa thực hiện.
Nhìn lên thập giá Chúa, trong niềm
hiệp thông với Mẹ Ngài, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta được tiếp tục
tin yêu, được tiếp tục nhìn thấy ánh sáng phục sinh giữa những đêm tối của khổ
đau, thử thách. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho không biết bao nhiêu người
đang quằn quại trong đau đớn của thể xác, trong cô đơn của tâm hồn. Xin cho họ
được nâng đỡ, ủi an và tìm được niềm tin.
Trích sách Lẽ Sống.
Dẫn vào Tin Mừng.
Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng không chỉ
dành riêng cho mười hai tông đồ, nhưng là sứ mạng của tất cả mọi người. Là người
Kitô hữu, ta được Chúa sai đi nối tiếp công việc truyền giáo của các tông đồ.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca. (Lc 10, 1-12)
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai
người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các
nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà
thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người.
Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng
mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà
nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở đấy có
con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng
không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống
những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
"Khi vào thành nào mà người ta
tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh
nhân trong thành và nói với họ rằng: "Nước Thiên Chúa đã đến gần các
ngươi". Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra
giữa các phố chợ và nói: "Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân
chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết
rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần". Thầy bảo các con, ngày ấy, thành
Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con biết thực thi sứ mạng truyền giáo bằng chính cuộc sống của con nơi gia đình, nơi cộng đoàn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét